Page 71 - Cách Phòng Và Điều Trị Viêm Gan B
P. 71

Đỗ Đức Nghĩa (biên soạn)



       không  đều.  Chẳng  hạn  dùng  lamivudin  +  adeíovir  với
       người  đã bị kháng lamivudin thì  tính trên  người dùng có
        80%  có  đáp  ứng,  80%  giảm  HBV-DNA  đến  mức  không

        phát  hiện  được,  84%  ALT  trở  lại  bình  thường.  Sau  khi
        ngừng  dùng  3  năm  không  nhận  thây  có  sự bùng  nổ đảo
        ngược về virut hay lâm sàng học, không hình thành sự đề
        kháng kiểu gen, không mất bù trừ ở người xơ gan. Nhưng
        có  trường  hợp  không  cho  kết  quả  tốt  hơn.  Chang  hạn:

        dùng  lamivudin  +  telbi-vudin  thì  tốt  hơn  dùng  riêng
        lamivudin nhưng lại không tốt hơn dùng riêng telbivudin.
        Vì  sự  phối  hợp  chưa  ổn  định,  hơn  nữa  làm  tăng  chi  phí
        điều trị nên các nghiên cứu này chưa áp dụng lâm sàng.

          4.  Adeỷovỉr Dipivoxil
           Là acyclic analogue được công nhận năm 2002. Hiệu quả
        điều  trị  cho  viêm  gan  B  mạn  HBeAg  dương  tính  hay  âm

        tính. Ti lệ thành công 1 năm điều trị Adeíovir hơi thấp hơn
        Lamivudine  (24%  so  với  32%).  Hiệu  quả  này  không  thay
        đổi  ở  các  genotype  siêu  vi  B.  Sự  đề  kháng  thuốc  đối  với

        Adeíovir  rất hiếm  thấy.  Sau  2 năm  chỉ  3%,  sau  3  năm  chỉ
        6%. Tỉ lệ  kháng thuốc  đối  với  Lamivudine  gấp  15 - 20 lần
        Adeíovir.  Do  tỉ  lệ  kháng  thuốc  thấp  khi  kéo  dài  thời  gian
        điều  trị,  Adeíovir  thích  hợp  điều  trị  viêm  gan  B  mạn
        HBeAg âm tính.

           Adeíovir  có  hiệu  quả  ức  chế virut  ở  bệnh  nhân  viêm

        74
   66   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76