Page 133 - Các Hoạt Chất Tự Nhiên Trong Phòng Bện Ung Thư
P. 133
chất hoá học 5 -aminoacrydin vừa có tác dụng gây biến dị tế
bào ở giai đoạn phân bào giảm nhiễm nhưng đồng thòi cũng là
chất chống biến dị ở các tế bào mitotic.
42. IZOFLAVON
Izoflavon của đậu tương kìm hãm giai đoạn sớm sự phát
động phénobarbital (PB) ở mô hình ung thư gan được cảm ứng
bởi nitrozam in DEN. Các tác giả đã xác định izoflavon đậu
tương như là loại châ't chống ung thư có giới hạn an toàn hẹp,
bởi vì khi sử dụng liều cao izoflavonoid thì gây ra ung thư. Bữa
ăn kiêng phong phú đậu thì sẽ có một lượng lớn các chất ức chế
proteaza (có tên BBA = BOMANA - BIRKA, TI = inhibitor
trypsin) ở hàng 600mg/100g gây ra giảm sức lốn động vật, gây
loét tuỵ, ở chuột có thể gây ung thư tuyến tuỵ. Người ta lưu ý
chât ức chê proteaza không mở đầu gây ra ung thư tuỵ. Nói
chung người ta thấy rằng liều nhỏ chất ức chế men proteaza
của đậu tương vào khoảng 10 - 100 mg/100g thức ăn của người
có tác dụng bảo vệ ngăn ngừa ung thư.
Đậu tương chứa fitoestrogen như genistein, daizein,
coumetrol - mà những châ't này có ảnh hưởng tôt cho phụ nữ
sau thời kỳ mãn kinh. Song trong những trường hợp khác tác
dụng của fitoestrogen có tác dụng phụ. Trẻ nhỏ câm không
được uống sữa đậu nành vì tác dụng estrogen của các
flavonoid. Song flavonoid của đậu tương đã chỉ ra tác dụng yếu
của estrogen; 4000 đến 4 triệu lần nhỏ hơn 17 - beta estradiol.
Theo các chuyên gia sữa đậu nành có thể là không an toàn đối
với trẻ câm. Coumestrol không có tác dụng antiestrogen và ỏ
động vật không làm ảnh hưởng đến tính động dục của chuột cái.
Insoílavonoid cũng có tác dụng estrogen.
133