Page 77 - Bí Mật Tháp Vẵn Xương
P. 77

tâm  đi  vào  xu  hứớng  duy  lý...  đi  tìm  khái  niệm  bản  thể  luận
          như  Lâo  Tử,  như  triết  học  Phật  giáo  hay  cái  phóng  nhiệm
          nhiều  lúc  đến  ngụy  biện  của  Trang Tử.  Ông hiếu  sâu  sắc  triết
          học  Tông  Nho  nhưng  không  đi  vào  sự  câu  nệ  vụn  vặt,  không
          lý  giải  quá  sâu  cái  lý,  có  khi  rắc  rối,  hoặc  chỏ  sợi  tóc  làm  tư
          để  tìm  hiốu,  biện  giải  nhiều  thứ  IĨ1Ơ  hồ  rôi  rắm  trong  những
          khái  niệm  hỗn  tạp  đó.  Với  sự  uyên  thâm  vôn  có,  ông  được
          triều  đình  nhà  Mạc  và  sì  phu  dương  thời  phong  là  Trình
          tuyền  hầu,  tức  là  một  vị  Hầu  tước  khơi  nguồn  dòng  suôi  triết
          học  của  họ  Trình  (tức  Trình  Di,  Trình  Hiện  -  hai  nhà  triết
          học  khai  phá  ra  phái  Lạc  Dương  của  Tống  Nho),  hoặc  đời  còn
          gọi  ông  là  cụ  Trạng Trình.  Tuy  vậy,  triết  học  của  ông  là  triết
          học  đã  được  sống  dậy,  biểu  hiện  trong  thơ  như sự  gợi  ý  mách
          bảo  của  cuộc  sông  ihực  tiễn.  Ông  chắt  lọc  từ  trong  nhận  thức
          triết  học  mà  mình  thu  lượm  được,  phép  biện  chứng  nhìn  bên
          ngoài  có  vẻ  như thô  sơ  đế’  giải  đáp  nhiều  hiện  tượng  tự nhiên
          và  xã  hội  nảy  sinh  ở  quanh  mình.  Trong  thơ  ông,  ngoài  m ặt
          triết lý  nhân sinh, nối bật lên những suy ngầm chiêm nghiệm,
          đúc  kết  như muôn  vươn  lên  khái  quát  “luật”  đời  bằng  những
          phạm  trù  triết học.  Vì  lẽ  đó,  ông rất hay  dùng  đến  những  cặp
          phạm  trù  đôi  lập  như:  đen  -  trắng,  tôt  -  xấu,  đầy  -  vơi,  sinh  -
          diệt,  vuông  -  tròn,  dể  giãi  bày  quan  niệm  triết  lý  nhân  sinh
          của  mình.
               Tuy  nhiên,  “một  hạn  chế  dề  nhận  thấy  trong  tư  tương
          triết  học  của  Nguyền  Binh  Khiêm  là  tuy  nắm  được  phép  biện
          chứng,  nhưng  VHI1  nặng  về  cluy  tâm.  Quan  niệm  về  sự  phát
          triển  cua  ông  còn  năm  trong  khung  tròn  khép  kín  chứ  chưa
          phải  là  vòng  tròn  xoáy  ốc.  Đó  là  sự  phát  tri ôn  tuần  hoàn,  là
          cái  phép  biện  chứng  của  Chu  dịch...  ông  đã  nhận  được  trong
          nền  giáo  dục  Nho  học  đương  thời,  cộng  với  phép  biện  chứng
          thô  sơ  của  Lão  Tử  Irong  Đạo  đức  kinh.  Đó  cũng  là  nhừng hạn
          chế  đương  nhiên  của  rất  nhiều  nhà  triết  học  cồ  đại”  (Đào
          Thái  Tôn).




                                                                   75
   72   73   74   75   76   77   78   79   80   81   82