Page 39 - Bí Mật Tháp Vẵn Xương
P. 39
Mạc Đĩnh Chi nhìn quanh nom thây ở bên kia sông có
cái đình dưới chân núi, nhân thê chỉ tay thẳng đình mà đối:
Dụi dinh, anh thạch, vọng chi nghiễm nhược Thai sơn
(Nghĩa là: Đình to, đá vững, nhác nom như thế’ Thiên
Thai)
Câu này cùng dùng toàn tên người ghép lại như ớ câu
trên mà lại có ý khoáng (lạt hơn nhiều, theo đó Đại Đình là
một biộl hiệu CIIM 'Phần Nông, an thạch tức Vương An Thạch
thừa t,ơ('/ng đời Miíc Tống, Vọng Chí là người (lời Hán, làm
phụ cliínli cho ] lán Nguyôn ílế (hai từ “ngliiêrn nhược” và
“Thai sơn”, các nhà nghiên cứu chu biết chưa Ira cứu ra là ai).
Một lần nữa, người Nguyên lại phái khâm phục tài văn
học của Mạc Đĩnh Chi.
5. Lưỡng quốc Trạng nguyên
Lại một lần khác, Mạc Đĩnh Chi cùng với sứ thần một
sô nước ra mắt vua Nguyên. Nhân có nước chư hầu nào đó
dâng chiếc quạt, vua Nguyên bắt sứ thần Đại Việt và sứ thần
Triều Tiên dề thơ. Giữa lúc Mạc Đĩnh Chi còn tìm tứ thơ, thì
sứ Triều Tiên đã viết liến thoắng. Ồng liếc nhìn theo quản
bút đọc thấy sứ Triều Tiên viết hai câu chữ Hán, dịch nghĩa
như sau:
“Nóng nực oi ả, thì như Y Doãn, Chu Công” (là những
người được vua trọng dụng)
“Rét buốt lạnh lùng, thì như Bá Di, Thúc Tề” (là những
người bị ruồng bó)
Với Hự nhanh Lrí kì lạ, Mạc Dinh Chi liền phát triển hai
cáu thơ ln*n thành mội bái xuñt sác, mô tá ciliée quạt:
L iỉii him thiíóc thạch, thiên vị dịu lô, nhì ư tư /kì /lề, Y
Chu cự nho.
37