Page 99 - AllbertEstens
P. 99
tảng của lý thuyết hấp dẫn Newton hay lý thuyết tương đc
rộng mà là ý tưỏng có ý nghĩa rộng lón hơn vể không-thời giai
bị cong. Như Will đã viết [5], Nguyên lý tương đương "là trá
tim và linh hồn của lý thuyết hấp dẫn", "hấp dẫn phải là hiệi
tượng không-thời gian" bị cong", 'các hiệu ứng hấp dẫn phò
tương đương với các hiệu ứng về sống trong không-thời gia
cong".
Nguyên lý tương đương (còn có thể gọi là "sự phổ biến củ
sự rơi tự do") phát biểu một cách tổng quát (theo Weinberg [8
như sau: Ở mọi điểm không-thời gian trong một trường hấp dẫ
bất kỳ, ta có thể chọn một "hệ tọa độ quán tính địa phương" SQ
cho, trong phạm ui một vùng đủ nhỏ của điểm được xét, các địn
luật của tự nhiên có cùng dạng như là trong những hệ tọa ớ
Descartes không gia tốc khi không có hấp dẫn.
Đôi khi các tác giả đã phân biệt "Nguyên lý tương đươr
yếu" và "Nguyên lý tương đương mạnh”. Nguyên lý phát biểu
trên chính là Nguyên lý tương đương mạnh, ở đây "các định lui
của tự nhiên" có nghĩa là tất cả các định luật của tự nhiê:
Nguyên lý tương đương yếu củng giống như vậy nhưng "cí
định luật của tự nhiên" được thay bằng "các định luật cũ
chuyển động của các hạt rơi tự do”. Như vậy Nguyên lý yếu c'
là sự phát biểu lại về sự bằng nhau đã quan sát được của kh
lượng hấp dẫn và khổi lượng quán tính, còn Nguyên lý mạnh \
sự mở rộng các quan sát về các hiệu ứng hấp dẫn cho tất cả c;
hệ vật lý.
Nguyên lý tương đương yếu đã được chứng minh b
Newton vào thế kỷ XVII với độ chính xác tỉ đối khoảng 1 phỉ
trên 102 qua các quan sát về Mặt Trăng, Sao Mộc và các con 1;
làm bằng những vật liệu khác nhau. Đầu thế kỷ XX, Rolai
von Eötvös ở Hungari, dùng cân xoắn để tạo ra sự cân bằng gií
tác dụng gia tốc quay của Trái Đất và tác dụng hấp dẫn của ]