Page 122 - AllbertEstens
P. 122

thuyết về  sự  tiến  hóa  của  vũ  trụ  bắt  đầu  từ một  quả cầu lửa



                                                                       nguyên thủy đã xuất hiện chính là từ sự diễu cợt này.





                                                                                      Khác vối Gamow, Hoyle và một nhóm tác giả khác gồm có


                                                                       H.  Bondi và  T.  Gold  trong cùng năm  1948 đã  đưa ra lý thuyết



                                                                       trạng  thái  dừng  theo  đó  vũ  trụ  không có  lúc  bắt  đầu  và  cũng



                                                                       không có lúc kết thúc,  vật chất liên tục được sinh ra trong quá



                                                                       trình nở của vũ trụ để bù vào phần vũ trụ đã nở thêm, giữ cho


                                                                       mật độ của vật chất luôn luôn không đổi. Lý thuyết này đã từng



                                                                       được nhiều  nhà vũ trụ học rất hâm mộ nhưng nó đã bị phá sản



                                                                       trước các dữ kiện thực nghiệm mới, đặc biệt là về bức xạ phông


                                                                       vi ba vũ trụ được phát hiện năm  1965, chứng cớ rõ ràng về một



                                                                       vũ trụ tiến hóa theo kịch bản Big Bang.





                                                                                      Năm  1965, Arno A.  Penzias  và  Robert  w.  Wilson  ở  Bell


                                                                       Telephone Laboratories, khi cô" gắng giảm tiếng ồn ở một ăngten



                                                                       nhằm liên lạc tốt hơn với vệ  tinh viễn thông  Echo,  đã bất ngờ



                                                                       tìm thấy rằng toàn bộ không gian có hơi "ấm" một chút, cụ thể


                                                                       là có nhiệt độ khoảng 3,5 K,  do có những sóng vi ba tràn ngập



                                                                       không gian giông nhau theo mọi hướng (đẳng hướng) mà nguồn



                                                                       của  chúng  không  thấy  có,  Rất  nhanh  chóng,  ngay  trong  năm


                                                                       1965, bức xạ đó đã được R. H. Dicke, p. J. E. Peebles, p. G. Roll



                                                                       và D. T. Wilkinson nhận định rằng nó chính là bức xạ tàn dư đã



                                                                       được dự đoán theo lý thuyết của Gamow. Bức xạ này có phổ của


                                                                       một vật đen vối nhiệt độ theo ước tính lúc đầu (1946) là khoảng



                                                                       10  K, sau đó, theo Alpher và Herman (1950) là khoảng 5K. (Hai



                                                                       tác giả này lại nghi ngò khả năng còn tồn tại của bức xạ này cho


                                                                       đến ngày nay). Theo các kết quả đo của vệ tinh COBE (Cosmic



                                                                       Background  Explorer)  công bô' năm  1992, phổ của bức xạ đúng



                                                                       một cách rất chính xác là phổ của một vật đen ở nhiệt độ 2,75 K



                                                                       (Hình  5); theo các kết quả  mới nhất từ vệ tinh WMAP (lúc đầu



                                                                       gọi là MAP - Microwave Anisotropy Probe, sau thêm w để tưởng


                                                                       nhố  Wilkinson,  người  lãnh  đạo  dự  án  vừa  mất)  công  bô" năm



                                                                       2003 là 2,728 K [4].








                                                                       120
   117   118   119   120   121   122   123   124   125   126   127