Page 107 - Nhân Vật Lịch Sử Tiêu Biểu
P. 107
“năm nay đánh giặc nhàn”, nhưng vẫn theo sát tình hình để chỉ
đạo cuộc kháng chiến. Đặc biệt, vua đã tỏ rõ tài khiển tướng, gồm
cả tài chế tướng và tài khích tướng, nhất là đối với trường hợp của
Phó tướng Trần Khánh Dư trong trận Vân Đồn. Vua rất nghiêm
khắc khi định tội nhưng củng rất khoan dung cho lập công chuộc
lỗi. Vua còn biết cách phát huy chiến quả của trận này, lập kế “tha
những tên bị bắt về doanh trại quân Nguyên để báo tin. Quân
Nguyên quả nhiên rút lui. Cho nên, năm này, vết thương không
thảm như năm trước”1.
Trần Nhân Tông thật sự xứng đáng vối lòi ca ngợi của các sử gia
sau này: là vị vua trí dũng song toàn, có mưu lược lớn. Biết rõ dân là
gốc, ông đoàn kết toàn dân, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mông -
Nguyên thắng lợi, bảo vệ đất nước vẹn toàn, giữ lại được kinh đô
Thăng Long qua hai cuộc biến cô' lớn. Đại Việt sử ký toàn thư chép:
“Vua nhân từ hòa nhã, cò’ kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng
ngòi thuở trước, thực là bậc vua hiển của nhà Trần”2.
Trần Nhât Duật
Trần Nhật Duật là một danh tướng đời Trần, vốn là con thứ sáu
của vua Trần Thái Tông, là em ruột của vua Trần Thánh Tông và
Thái sư Trần Quang Khải. Khi sinh ra, ông có iưóng mạo khôi ngô
nên được vua cha đặt tên là Chiêu Văn, về sau được phong Chiêu
Văn Vương. Lúc nhỏ, ông chăm học, ham hiểu biết, có trí nhớ tốt.
Lớn lên làm An phủ sứ Đà Giang, ông thường lui tới nhà các tù
trưởng nên hiểu biết rất rộng vể tiếng nói và phong tục của nhiều
đồng bào dân tộc thiểu số. Cũng vì thế mà ông có ý thức đoàn kết
các dân tộc, thu phục được nhiều thủ lĩnh dân tộc thiểu sô.
Năm 1280, một thủ lĩnh người dân tộc thiểu sô" ỏ Đà Giang là
Trịnh Giác Mật làm phản. Vua sai Trần Nhật Duật đến dụ hàng.
Bấy giờ Trần Nhật Duật đang trông coi đạo Đà Giang, bèn đem
1, 2. Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd,
t.II, tr. 60, 44.
109