Page 170 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 170
quyền, học kiếm. Cuối hè 1927, tôi thôi tham gia phong trào,
bỏ cuộc đấu tranh cách mạng. Thế Lữ và Vũ Văn Hiền bền bỉ
hơn tôi thêm một thời gian. Một số khác kiên trì đấu tranh
cách mạng, bị địch đem đày và làm chết ở Côn Đảo như
Nguyễn Văn Hới; giam giữ và quản thúc như Đỗ Kim Điến
và Bùi Đắc Thanh (2 anh này chết khoảng năm 1944,1946),
có người tiếp tục hoạt động và còn sống đến nay như Vũ Văn
Tân tức Tố Lang - Xưởng phim Việt Nam.
Năm 1929, tôi tốt nghiệp Cao đẳng Tiểu học. Không có
điều kiện học Ban Tú tài “Bản xứ”, vê' nhà bắt đầu học chương
trình Tú tài trung học Pháp. Cuối năm 1930, tôi bắt đầu đi
làm và được bổ vào Vinh. Tôi mới lấy vợ, chăm lo hạnh phúc
riêng, mải miết học hành [...].
3/ Năm 1937, tôi vào Hội Nhân quyển (Ligue des drois
de rHomme et du Citoyen), chi Hội Nam Vang. Tôi làm phó
thư ký, giữ hổ sơ, thu nguyệt liễm, triệu tập các cuộc hội họp,
gửi tập san do Hội sở chính ở Paris gửi sang. Tôi ở trong Hội
ấy và làm việc cho nó trong khoảng hơn 2 năm. Đến cuối
năm 1939, khi tôi đổi từ Cao Miên vê’ Hà Nội thì không tham
gia nữa.
Ngày 24 tháng 11 năm 1939, tôi vào chi hội Tam Điểm
(Pranc Maconnesde) ở Cao Miên, mới là hội viên dự bị.
Tháng 6 năm 1940, Pêtanh giải tán hội này. Tôi dính hoạt
động trong hội này ở mức thấp, đóng nguyệt phí, hội họp,
nghe nói chuyện, tranh luận. Hội này nói chung chống Giáo
hội và phát triển dần chủ kiểu tư sản. Chi hội Cao Miên gồm
toàn người Pháp, có 2 người Việt (Huy làm dược sĩ và tôi). Vê'
Hà Nội, tôi vẫn thuộc một chi hội nhiều người Pháp, ít người
Việt (Vũ Đình Mấn - gần đầy làm Giám đốc Sở Nông lâm Hà
Nội, nay ở Hội đồng Kỹ thuật Bộ Nông nghiệp; Vương Khả
Lai; Thẩm Hoàng Tín; Phạm Xuân Độ). Nhưng tôi có hoàn
171