Page 367 - Các Tổng Tư Lệnh Chiến Trường Nhật Pháp Trong Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Việt Nam
P. 367
360 VỂ CÁC TỔNG Tư LỆNH, Tư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...
Hội An đến mũi Varella và Tuy Hòa, ngày 27-1-1954 ta đánh
Măng Đen, tiếp đó diệt các cứ điểm trên đường 19 - 19B, đập
tan tuyến phòng thủ bắc Kon Tum. Các liên đoàn lưu động 41 -
42 gốc Thượng do các viên đại tá Sockell và Jand chỉ huy đã bị
đánh tan tành. Liên đoàn 11 của tên trung tá Nguyễn Khánh
cũng bị thiệt hại nặng. Ngày 28-1-1954 ta chiếm Kon Tum,
địch phải chạy về cố thủ Pleiku và An Khê, quôL lộ 19 nam
Tây Nguyên. Như vậy là sau ngày 13-3-1954 đánh chiếm Phú
Yên, địch kiểm soát khoảng ó.OOOkm^. Đối phó lại, chỉ trong 11
ngày mở chiến dịch Tây Nguyên, ta đã giành được 14 vạn km^
giải phóng 200.000 dân. Sau nhiều trận phuc kích trên quốc
lộ 19, ta chuyển sang bao vây An Khê do Liên đoàn 11 từ Kon
Tum về đóng giữ đang bị cô lập. Ngày 30-3-1954, Pháp đưa 2
tiểu đoàn lên tăng viện đã bị tiêu diệt tại đèo Mang. Liên đoàn
100 đưỢc lệnh di chuyển tới Pleiku theo quốc lộ 19 giải tỏa cho
An Khê. Quyết định này là hồi chuông báo tử cho Binh đoàn
cơ động 100.
Theo Bernard Pall trong cuốn Lịch sử chiến ừ-anh Đông
Dương thì Binh đoàn 100 được tổ chức lại trên cơ sở của trung
đoàn mang cờ hiệu Liên hỢp quốc từ Triều Tiên về Việt Nam
sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc. Trung đoàn gồm Tiểu
đoàn 1, Tiểu đoàn 2 giờ được tăng cường 1 tiểu đoàn biên cảnh
thuộc Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 43, 2 pháo đội 10 và 11,
3 biên đội xe thiết giáp. Tổng quân số 3.498 người do đại tá
Barrou chỉ huy; La Jouanie, nguyên trung tá trung đoàn trưởng
là phó. Pháp coi đây là một lực lượng ưu tú với trang bị mạnh.
Ngày 28-1, chúng được chở đến Tuy Hòa và được đưa lên Kon
Tum. Ngày 20-3, binh đoàn tới Pleiring, tên cũ là làng Din bên
sông Đắk Ya Dung, kế đường sô" 7 (nay nằm dưới lòng hồ công
trình thủy điện Ayun hạ).