Page 139 - Văn Khấn Cổ Truyền Của Người Việt
P. 139
Ngẩng trông chứng giám lòng thành
Cúi xin phù tri bảo hộ
Mong Tiên linh khơi rộng mạch Trường sinh
Cho hậu duệ leo lên thềm thượng thọ
Trên Thiên tào tăng niên kỷ lâu dài, như rùa hạc vô cương
Dưới Hải ốc tươi phúc lộc dồi dào, như suối nguồn bất hủ
Khấn đầu cúi lạy Thần linh, tiên tô thượng hường!
Con cháu lễ bái xong rồi tổ chức cỗ bàn ăn mừng, mời hàng xóm,
khách khứa đến dự. Khách đem lễ vật đến mừng và chứng kiến sự
hạnh phúc của cụ, sự hiếu thảo của con cháu. Họ hàng cũng có lòi
chúc mừng. Hai bên nhà có treo những câu đối, đại tự để mừng cụ.
Có nhà còn mòi ca nhi tới để ngâm thơ, ca hát.
IX. VĂN KHẤN TANG MA, CÚNG GIỖ
Tang là sự đau buồn khi có người thân mới chết, là lễ chôn cất
người chết (an táng, mai táng), là dấu hiệu (áo, mũ, khăn...) để tỏ
lòng thương Cếc người chết. Tang chế là phép tắc quy định việc đưa
đám và để tang. Tang lễ (lễ tang) là nghi lễ chôn cất người chết. Từ
đó có những từ: tang phục, tang sự, tang gia, tang chủ, đám tang, để
tang, bịt khăn tang, đeo băng tang, mãn tang, xả tang, tông tang, hộ
tang ...
Ma (ma chay) là lễ chôn cất và cúng người chết theo tục lệ cổ
truyền. Đám na còn gọi là đám tang. Như vậy tang ma có nghĩa là lễ
chôn cất cúng kính, cùng những quy định về việc để tang và đưa đám
người thân mối chết. Khi có tang ma, người ta đem tiền hay đồ lễ đến
viếng để tỏ lòng thương tiếc người chết và thăm hỏi chia buồn cùng
tang quyến, gọi là phúng viếng hay phúng điếu. Điếu ca là bài thơ tỏ
lòng thương tiếc người chết. Điếu văn là bài văn tỏ lòng thương tiếc
người chết đọc khi làm lễ tang.
Theo quan niệm của người xưa: Người chết là bắt đầu cuộc sông
ở một thế giối khác "Sông gửi - Thác về”. Bởi vậy, theo tục xưa trong
tang chế có rất nhiều nghi lễ để tiễn đưa vong hồn người đã khuất
sang thê giới bên kia được trọn vẹn, chu đáo, thể hiện lòng thành,
làm tron đao 1 iếu.