Page 28 - Vấn Đề Bảo Vệ Quyền Sở Hửu Trí Tuệ
P. 28

28                VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ... THƯƠNG MẠI



                        đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế hoặc trong Bằng độc quyền
                        sáng chế đã cấp. Sẽ là vô lý nếu bên thứ ba bị buộc tội có hành vi vi phạm
                        khi các chi tiết về sáng chế còn chưa được công bố cho công chúng để họ
                        có thể tự xem xét cái gì bị ngăn cấm.

                             Yếu tố thứ ba trong việc chứng minh một hành vi vi phạm là Bằng
                        độc quyền sáng chế không vượt ra khỏi biên giới của quốc gia cấp Bằng
                        độc quyền sáng chế đó. Luật về sáng chế của một quốc gia này không có
                        hiệu lực tại một quốc gia khác. Tuy nhiên, đối với một số ít các quốc gia,
                        đặc biệt là các nước thuộc Khối liên hiệp Anh, có thể mở rộng phạm vi
                        của một Bằng độc quyền sáng chế thuộc Vương quốc Anh tới các quốc gia
                        khác bằng việc nộp đơn yêu cầu của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế
                        đó, thường là trong thời hạn 3 năm kể từ ngày cấp Bằng độc quyền sáng
                        chế, để đăng ký Bằng độc quyền sáng chế đó tại quốc gia liên quan.
                             Yếu tố thứ tư trong việc chứng minh một hành vi vi phạm thường là
                        điểm quyết định trong mọi tranh chấp về Bằng độc quyền sáng chế. Tại
                        mọi quốc gia, phạm vi bảo hộ của một Bằng độc quyền sáng chế được xác
                        định bởi các yêu cầu bảo hộ. Ý nghĩa của các yêu cầu bảo hộ này chung
                        cuộc sẽ  được toà án giải thích. Cách thức  để toà án diễn giải yêu cầu
                        ngược lại phụ thuộc vào luật pháp từng quốc gia và trong chừng mực nào
                        đó còn là các nguyên tắc và quy định. Vì vậy, một yêu cầu bảo hộ có ý
                        nghĩa như thế nào sẽ phụ thuộc vào hệ thống tư pháp mà ở đó yêu cầu bảo
                        hộ được giải thích.

                             Các toà án, đặc biệt trong hệ thống CommonLaw (thông luật), hướng
                        tới việc xác định cấu trúc nào mà ngôn từ của phần yêu cầu định ra, và
                        xem xét liệu cấu trúc bị cáo buộc vi phạm có tương ứng với cấu trúc mà
                        ngôn từ trong yêu cầu bảo hộ định ra hay không.
                             Khi cố gắng giải đáp vấn đề liệu một kết cấu cụ thể nào đó có vi phạm
                        một yêu cầu bảo hộ trong Bằng độc quyền đối với sáng chế hay không, yêu
                        cầu bảo hộ này phải được tách ra thành các yếu tố riêng lẻ, và những yếu tố
                        này được đem so sánh với các yếu tố của kết cấu bị coi là vi phạm để xem
                        chúng có quan hệ gì với nhau hay không. Trên thực tế, nếu yêu cầu bảo hộ
                        có thể được phân tích để tương ứng với hành vi bị cáo buộc là vi phạm mà
                        ngôn từ của yêu cầu bảo hộ không bị suy diễn quá rộng, khi đó có thể nói là
   23   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33