Page 26 - Vấn Đề Bảo Vệ Quyền Sở Hửu Trí Tuệ
P. 26
26 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ... THƯƠNG MẠI
nhập khẩu sản phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, hoặc việc sử
dụng quy trình đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, hay việc chế tạo, sử
dụng, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm thu được trực tiếp từ quy trình đã
được cấp Bằng độc quyền sáng chế.
Việc chế tạo một sản phẩm nghĩa là sản phẩm được mô tả và yêu cầu
bảo hộ trong Bằng độc quyền sáng chế được thực hiện có thể coi là sản
xuất, đặc biệt khi sản phẩm được sản xuất nhằm mục đích thương mại.
Phương thức sản xuất và số lượng sản phẩm không liên quan tới hành vi vi
phạm một sản phẩm được cấp Bằng độc quyền sáng chế đã đề cập. Tuy
nhiên, có ba ngoại lệ chính mà luật pháp hầu hết các quốc gia đặt ra đối
với hành vi không vi phạm quyền độc quyền trong việc sản xuất một sản
phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, đó là:
- Khi sản phẩm được cấp Bằng độc quyền sáng chế được làm ra chỉ vì
mục đích nghiên cứu khoa học và thí nghiệm;
- Khi bên thứ ba đã bắt đầu làm ra sản phẩm trước ngày nộp đơn yêu
cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế cho sáng chế trong sản phẩm đó;
- Khi sản phẩm được cấp Bằng độc quyền sáng chế được thực hiện
theo một li-xăng không tự nguyện hoặc theo sự cho phép của chính phủ vì
lợi ích công cộng.
Đối với các quy trình đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, chỉ có
việc làm ra những sản phẩm thu được trực tiếp từ quy trình được cấp Bằng
độc quyền sáng chế mới là hành vi bị ngăn cấm. “Trực tiếp” trong ngữ
cảnh này nghĩa là “ngay lập tức” hay “không có sự chuyển đổi hay biến
đổi thêm nữa”.
Khi chứng minh hành vi vi phạm đối với các sản phẩm thu được trực
tiếp từ một quy trình được cấp Bằng độc quyền sáng chế là việc chứng
minh rằng quy trình được cấp Bằng độc quyền sáng chế đã được sử dụng
để sản xuất ra sản phẩm đó.
Luật pháp hầu hết các quốc gia thường đưa ra 5 ngoại lệ về hành vi vi
phạm độc quyền đối với việc sử dụng một sản phẩm đã được cấp Bằng
độc quyền sáng chế, đó là: