Page 88 - Quan Hệ Bang Giao Và Những Sứ Thần Tiêu Biểu
P. 88
c^uan hc Lniị> ịịiao rủ iái sử tỉìần //Vỉ/ Ịìièu... 8 9
nhiên, các thủ lĩnh địa phương đó không thừa nhận những
quy phạm và giá trị của chế độ quan liêu Khổng giáo. Họ dễ
mua chuộc và chia rẽ cũng như khó khuất phục và hỢp nhất.
Từ đó, họ lạo thành yếu tố rối động cho hai chính quyền Việt
Nam và Trung Hoa, những hành động không hợp thời của họ
(đột kích, xâm phạm biên giới) có thể là nguyên nhân xung đột
(giữa hai nước)”*".
Trước tình hình phức tạp của vùng đất biên cương phía
Bắc như vậy, nhà nước Lý - Trần, về đối nội, đả kết hỢp
biện pháp mềm dẻo (trao quyền tự quán, gả công chúa cho
thổ tù, châu mục - chủ yếu ở thời Lý) với biện pháp cứng
rắn, hành quân đánh dẹp khi cần thiết để thực hiện quyền
quản lý của nhà nước, về phía đối ngoại đã tỏ thiện chí,
phối hỢp hành động, hoặc kịp thơi dẹp yên để tránh những
xung đột đáng tiếc nhằm giữ yên biên cương.
Điển hình cho vụ rắc rối biên cương vào thời này có lẽ
là vụ Nùng Trí Cao xảy ra từ nám 1041, bắt dầu bằng việc
giữ động Lôi Hỏa, Thảng Do (đều thuộc Cao Bằng ngày
nay) lập nén nước Đại Lịch. Tất nhiên Nùng Trí Cao bị
chính quyền nhà Lý (thời Lý Thái Tông) đánh dẹp. Trí Cao
bị bát, nhưng được vua Lý tha, lại cho thêm đất để tự quản.
Phục tùng nhà nước thời Lý được bảy nãm, đến năm 1048,
Trí Cao lại giữ động Vật Ác (Tây Bắc ('ao Bằng) chống lại
triều dinh. Bị nhà Lý đánh, Trí (>ao phải hàng. Năm 1049
Trí Cao dcm quân vào dất Tống, cướp phá Ung Châu. Năm
1050 Trí Cao giữ dộng Vật Dương lập nước Nam Thiên.
Nãm 1052, Trí Cao xưng Hoàng dế, đặt quốc hiệu Dại Nam,
N hunlmi I lic •'l.a rmntièic sino - viclnamicuc du \icmc au XVII
ùnic Scicdc" ironu /,L’\ /m niiừiìcs thi í icl .\<WI. nhiêu tác tiia. Nxb I.'
Ilarniatan. I'aris. I‘)89.