Page 8 - Quan Hệ Bang Giao Và Những Sứ Thần Tiêu Biểu
P. 8
Ọiiư/I hí' haim ịiiíto t<ù cúc sứ thần tiêu lìicu... 9
mớ mang bờ cõi, bấy giờ điền lễ sách phong của Trung Quốc mói
nhận cho đứng riêng là một nước"[\, 136].
Vậy là xét về thực chất, việc Trung Quốc phong vưctng
cho Việt Nam trước hết là công nhận vị trí độc lập của Việt
Nam theo điển lễ đã đưỢc xác định của Trung Quốc với các
nước có quan hệ triều cống và thụ phong. Và đối với Việt
Nam, nước có biên giới ngay sát đại đế quốc phong kiến
Trung Quốc, lại đã từng bị Trung Quốc xâm chiếm hàng
ngàn năm, thì việc cầu phong luôn được sử dụng như một
phương sách ngoại giao để giữ mối quan hệ hoà hiếu với
nước láng giềng này.
Hoạt động cầu phong ấy kéo dài đến thời vua Tự Đức
(triều Nguyễn), bởi đến năm 1885 với hoà ước Thiên Tân
giữa Pháp và Trung Hoa thì đã chấm dứt vĩnh viễn quan hệ
thượng quốc - chư hầu giữa Việt Nam với Trung Quốc.
1. Nguyên nhân của hoạt động cầu phong trong quan hệ
bang giao giữa Việt Nam với Trung Quốc thời phong kiến
Có thể nói, dưới thời đại phong kiến ở nước ta, các vị
vua sau khi giành được chính quyền đều có mong muốn xin
phong vương với Trung Hoa. Cái lý buộc các vua phong
kiến Việt Nam xin phong vương cũng như các triều vua
trước đó là ở cái thực tế: Việt Nam là một nước nhỏ, sát
cạnh ngay một quốc gia phong kiến Trung Hoa lớn gấp
nhiều lần, lại thường xuyên có mưu đồ thôn tính Việt Nam.
Vì thế, để đảm bảo an ninh, để có thể duy trì quan hệ hoà
hiếu với nước láng giềng khổng lồ ấy, các vua nước ta phải
có đường lối đối ngoại “mềm dẻo”, “lấy nhu, thắng cương”,
giả danh “thần phục”, cầu phong Trung Quốc.
Hơn nữa, khi cầu phong Trung Quốc, bên cạnh lợi ích
dân tộc, các vị vua ờ nước ta còn tính đến lợi ích giai cấp