Page 7 - Quan Hệ Bang Giao Và Những Sứ Thần Tiêu Biểu
P. 7
8 T ú sách V iỉt ĩ^a ni - íỉất nước, con iiỊỊirời
Quốc phải tôn trọng mình. Đây như đã thành một nguyên tắc
chi phối quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc
suốt các triều đại phong kiến. Nguyên tắc ấy là xuất phát điểm
cho mọi hoạt động ngoại giao của nước ta thời bấy giờ, trong
đó có hoạt động cầu phong của các triều đại phong kiến Việt
Nam vởi Trung Quốc.
Có thể nói, trong thờĩ đại phong kiến, vấn đề “sách
phong” là một trong hai cơ sở chủ yếu (bên cạnh việc “triều
cống”) để xây dựng nên quan hệ ngoại giao giữa các vương
triều phong kiến Việt Nam và Trung Quốc. Chúng ta có thể
xem đây là “một kiểu quan hệ đặc biệt, kinh nghiệm trên
thế giới chỉ thấy có trong quan hệ giừa Trung Quốc với các
nước láng giềng mà Việt Nam thường được xem là một thí
dụ điển hình, với tất cả tính chất phức tạp, nhiều mặt của
no”[3; 49].
Nói đến vấn đề “sách phong” giữa các triều đại phong
kiến Việt Nam với Trung Quốc nhưng thực tế hoạt động cầu
phong ấy chỉ thực sự bắt đầu thực hiện rừ thế kỷ X (từ thời
Ngô Xương Ngập), sau khi Việt Nam đã thoát ra khỏi ách đô
hộ của phong kiến Trung Quốc, giành lại được nền độc lập
hoàn toàn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc là, chỉ khi nào bị
thất bại về mặt quân sự, phải trao trả chủ quyền đất nước cho
Việt Nam thì Trung Quốc mới chịu phong vương cho nước ta.
Chính Phan Huy Chú trong Lkh triều hiến chương loại chí cũng
đã chỉ rõ đặc điểm này: “Nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu
thông hiếti với Trung Quốc, nhmg danh hiệu còn nhỏ, không được
dự vào hàng chư hầu triầi hội của nhà Minh đường. Rồi bị Triệu
Đà kiêm tính, nhà Hán phong Đà làm Nam Việt Vưcmg, chi được
sánh với chư hầu của'Trung Quốc, chứ chưa từng được nêu là một
nước. Đến sau nội thuộc vào nhà Hán nhà Đường, bèn thành quận
huyện. Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục