Page 33 - Phát Triển Bền Vững Và Chăm Sóc Sức Khỏe Ở Miền Núi
P. 33
Có thể ró tc tt kinh nghiệm tróng rừng nội địa (trẽn cạn) cho
viộc trồng rừng ngập mặn trên các diện tích bị phá hoại trong
jỊÓa,học và mò rộng ra các vùng bờ biển khác dọc
Ịbg, vịnh Thái Lan, V.V..
^ 2.S. Một số địa bàn đặc biệt
Ở một số địa phương có một diện tích rộng lớn đất lự nhiên
(đồi nũi) trọc, khô cằn, coi như bị hoang hóa, hầu như không còn
rùng cây (ví dụ Hà Giang), thiếu nước trầm trọng, đồng thời thiếu
lương thục cho người, cho gia súc, gìa cầm. Các địa phương này
đặt ra những bài toán vô cùng phức tạp, khó khăn. Người dân ở
nhũng vùng này phải vật lộn suốt năm, tháng với sự thiếu iương
thực- thợc phẩm, thiếu nước sạch, V.V.. với một cuộc sống quá
khắc khổ. Cần sớm có một chương trình tổng hợp 10 năm làm
xanh toàn bộ diện tích núi đá trơ trọc, cằn cỗi; lồng ghép với
chương trình môi trường miền núi và các chương trình quốc gia
IÓĨ1 khác có Hên quan. Nhà nước đầu tư thêm để hỗ trợ cho phần
riêng biột của vùng đồi núi khô cằn mà ở đó đời sống nhân dân
quá khó khản. Có hai phương thức để thực hiện chương trình đạc
biệt này:
Phương thửc thứ nhất:
a. Bắt đầu làm thí điểm ở một huyện. Tổ chức toàn dân thảo
luận thống nhất và bổ sung cho hợp lí hơn.
b. Giao đất (ở những điểm còn rừng) cho nhân dân địa phương
để định canh, định cư, làm sinh thái VACR.
Vận động lập nhóm 3-5 người ở gần nhau để giúp đỡ lẫn nhau
trong sinh sống; có một nhóm trưởng; cho vay vốn dể làm ãn,
khoảng 3-5 triệu đồng Việt Nam.
33