Page 37 - Phát Triển Bền Vững Và Chăm Sóc Sức Khỏe Ở Miền Núi
P. 37

Bể thầm) khí sinh học  có nhiểu tác dụng:
          Bảo vệ môi Irường chòng ô nhiễm; thu gom các rác thải sinh
       hoạt hữu cơ cho vào bể tiêu hóa để tiêu huỷ các chất hữu cơ, các
       vi khuẩn gây bệnh. Chất lóng hữu cơ thoát ra khỏi bể khí sinh học
       (BKSH) hay nước chạc khòng còn chứa các vi khuẩn gây bệnh;
       nếu còn thì tỉ trọng dưới mức cho phép.

         -  Nếu xây dựng theo đúng mẫu thiết kế và kín thì có thể Ihu
       được khí mê-tan  làm chất  đốt, thắp  sáng.  Mê-tan là  một nguồn
       năng lượng mới, không gây ô nhiễm mồi trường, không mất tiền
       mua,  không  phải  dầu  tư quá  lớn  như đối  với  các  nguồn  năng
       lượng khác (gió, nắng mặt trời, thủy điện, năng lượng nguyên tử)
       tỏ ra chưa thích hợp với miền núi.

         - Ỏ miền núi rừng, nó giảm bớt nhu cầu chặt cày rừng làm củi
       đốt. Với  một  bể khí sinh học gia đình mỗi năm có thể tiết kiệm
       được 23m3 củi  nghĩa là có thể không phải chặl ít nhất là  I20m'2
       rừng cày về làm củi. Bể khí sinh học là một phương tiện  bảo vộ
       rừng quý giá.
         - Nước chạc có thể chảy vào ao hồ nuôi cá, cùng với chất cặn
       từ bể tiêu hóa dùng làm phân bón cho sản xuất nông thôn.
         Nếu lập được những tổ chức xây dựng bể khí sinh học gia đình

       cho các  cộng đồng  (có kĩ thuật viên được đào tạo tốt),  với các
       nguyên  liệu  sẵn có trong  nước, giá thành  một  bể khí sinh  học
       hoàn chỉnh không quá  1-2 triệu đổng.
         Bể khí sinh học tạo cho người dân nghèo ở miền núi, cũng như
       ở các nưóe đang phát triển, một cuộc sông vãn minh, có vãn hóa
       hơn  (xem  Sơ đồ  số ố).  Miền  núi  với  1  triệu  hộ  gia  đình  cần
       khoảng  1 - 2 nghìn tỉ đồng Việt Nam; rpổt nước với 80 triệu dân,
       với 20 triệu hộ gia đình chi phí cho xây dựng các bể khí sinh học

                                                                  37
   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42