Page 40 - Những Vị Thuốc Quanh Ta
P. 40

về phòng bệnh, nhân dân miền sơn cước thường lấy
         nõn sả muối dưa ăn để phòng ngừa sơn lam trướng khí,
         sốt rét ngã nước. Phụ nữ lấy lá sả nấu nước gội đầu làm
         thơm, sạch gàu, trơn tóc, tránh những bệnh về tóc và da
         đầu.  Nhân  dân  trồng  cây  sả  quanh  nhà  ngoài  vườn,
         xung quanh nhà vệ sinh để xua đuổi ruồi, muỗi, bọ chét
         vừa làm sạch môi trường, vừa có tác dụng phòng bệnh.
         Ngoài ra, tinh dầu sả còn khử mùi hôi trong công tác vệ
         sinh.

              Về chữa bệnh, trong Đông y,  sả được dùng vối tên
         thuốíc là hương mao hay hương thảo. Dược liệu có vị the,
         cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng làm ra mồ hôi, sát
         khuẩn, chống viêm, hạ khí, thông tiểu, tiêu đờm.

              b. Bài thuốc phối hơp

              - Chữa bụng trướng, chân tay gầy gò: Lá sả 12g; vỏ
         bưởi, hồi hương, trạch tả, mộc thông, cỏ bấc, mỗi vị lOg;
         quế 5g; bồ hóng,  diêm tiêu,  mỗi vị 2g; xạ hương 0,05g.
         Tất cả sắc cách thuỷ vói 200ml nưốc trong 15 - 30 phút,
         rồi uống làm hai lần trong ngày. Kiêng ăn cơm nếp và
         muối mặn. Nên ăn mía trưốc khi uống thuốc.

              - Thuốc xông giải cảm: Lá sả, lá bưỏi, lá chanh, cúc
         tần,  hương nhu hoặc lá bạch  đàn  (có  thể thêm  tía  tô,
         bạc  hà,  kinh  giới),  mỗi  thứ  50g,  cho  vào  nồi,  đậy kín,
         đun sôi trong 5 -  10 phút. Lấy ra, mở vung, trùm chăn
         xông hơi cho ra mồ hôi, lau khô, rồi uống một bát nưốc
         thuốc, đắp chăn, nằm nghỉ.

              -  Chữa  phù  nề  chân,  tiểu  ít,  thấp  thũng:  Lá  sả
         lOOg, rễ cỏ xước, rễ cỏ tranh hoặc bông mã đề,  mỗi thứ
         50g. Tất cả rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml


                                                                  39
   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45