Page 100 - Những bài Làm Văn 12
P. 100

đã  biến tình yêu - một khái niệm trừu tượng thành cụ  thể, dễ  hiểu, đậm  đà  màu sắc
  vùng cao.
      - Câu thơ cuối ngắn gọn, hàm súc, phản ánh quy luật tình cảm của con người; từ
  tình yêu lứa đôi mở rộng thành tình yêu quê  hương, đất nước.
     3.  Kết bài:
      - Đoạn thơ trên mang những đặc điểm nghệ thuật riêng của thơ Chế Lan Viên.
      - Thơ Chế Lan Viên có sự sâu sắc của trí tuệ nhưng vẫn đậm đà chất trữ tình.
  II.  BÀI LÀM

     Chế  Lan  Viên  là  nhà  thơ  lãng  mạn  nổi tiếng  của phong  trào  Thơ mới giai
  đoạn  1930 - 1945. Nếu như trước Cáốh mạng tháng Tám, tác giả đã từng viết:
  Với tôi tất cả  như vô  nghĩa,  Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau và  đã từng cầu
  xin :  Hãy cho  tôi một  tinh  cầu giá  lạnh,  Một  vì sao  trơ trọi cuối  trài xa để  ẩn
  thân,  trốn  tránh  mọi  khổ  đau,  phiền  não  của cuộc đời...  thì  sau  Cách  mạng,
  trong  sự  nghiệp  đổi  đời  của  đất  nước  và  dân  tộc,  nhà  thơ  cũng  đã  làm  một
  cuộc hoá thân kì diệu để trở về  hoà nhập với cuộc sống xung quanh và cũng
  là tìm về với chính mình.
     Bài thơ  Tiếng hát con tàu là khúc hát say mê, rạo rực của một hồn thơ đã
  thoát khỏi khung trời chật hẹp của cái tôi nhỏ  bé  để  ra với chân trời rộng  lớn
  của  cái ta  là  nhân  dân, đất nước.  Nhà  thơ ví tâm  hồn  mình  như một con tàu
  đang mỏ  hết tốc  lực trong cuộc hành trình tiến  lên  phía trước mà đích đến là
  đất nước, là nhân dân vĩ đại và cao cả, là cuộc sống đầy ắp chất liệu và cảm
  hứng  nuôi dưỡng  hồn thơ.  Qua hai cuộc kháng chiến,  do sống suốt một thời
  gian  dài trong  nhân  dân và  do yêu  cầu  công tác  luôn  phải  đi  đây đi đó,  cho
  nên  nhà  thơ  luôn  được đùm  bọc trong  tình  yêu  thương  của đồng  bào ở  khu
  Bốn,  Việt  Bắc,  Tây  Bắc...  Tình  cảm  quý  báu  đó  khơi  nguồn thi  hứng  để  tác
  giả sáng tác bài thơ Tiếng hát con tàu và đoạn trích này là đoạn hay nhất, thể
  hiện nỗi nhớ của nhà thơ về Tây Bắc - quê  hương thứ hai - nơi có những con
  người đã gắn bó, chia sẻ  gian nan, đã từng vào sống ra chết với mình.  Người
  anh  du  kích,  người  mẹ  vùng  cao,  đứa  em  liên  lạc...  đã  trở  thành  sợi  dây
  thiêng liêng nối kết nhà thơ với vùn'g đất ấy:
                 Nhớ bản sương giăng,  nhớ đèo mây phũ
                 Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương ?
     Từ những kỉ niệm cụ thể, nhà thơ khái quát lên thành một triết lí sâu sắc:
                 Khi ta ở,  chỉ là nơi đất ở

                 Khi ta đi,  đất đã hoá tâm hồn I


                                                                         99
   95   96   97   98   99   100   101   102   103   104   105