Page 21 - Nghề Thủ Công Truyền Thống Việt Nam
P. 21
phác họa mẫu mã (model) Việt Nam song lại “ký hiểu” -
nhờ các lò sứ Trung Hoa sản xuất - cái mà một thời người
ta có thói quen là “đồ sứ pháp lam” - hay Tây dịch là “bleu
de Hue”... Hoặc người ta khát vọng “ăn cơm Tàu, ở nhà
Tây...” Hoặc người ta thấy “đôi đũa” là tầm thường, hình
như ăn với “cùi dìa” (cuiller) phóng x(s)ết (fourchette) là
có vẻ “văn minh” hơn, “Âu hóa” hơn...
0.3.
Có lẽ chúng ta cũng không cần / nên “đổ tội”,“đổ lỗi”
hoàn toàn do chế độ đô hộ - thực dân, mà cỏ lẽ cũng nên /
cần tính đến trình độ DÂN TRÍ - CÔNG NGHỆ của người
mình khi ấy - và cả đến bây giờ nữa.
3.1. Có thể có vấn đề nguyên liệu: Sét “cao lanh” của
“ta” không thật tốt bằng “cao lĩnh sơn địa” của Giang Tây
Trung Quốc, chẳng hạn thế. Xương gốm - sứ Bát Tràng
thuở trước làm bằng đất nâu đỏ Dâu Canh. Ghè một mảnh
“sứ Bát Tràng” thế kỷ XVIII ở Hội An - chúng tôi vừa từ đó
về Hà Nội sau ba mùa diền dã 93 - 95 ta sẽ thấy “bên ngoài”
và “bên trong” là “men ngà” (men trâu) song “xương gốm”
vẫn là màu đỏ nâu của sét - phù sa Nhị Thủy...
3.2. Có thể có vấn đề công nghệ (technology) hay “Quy
trình công nghệ”:
Làng Bưởi nồi (Đại Bái) xưa thích gò - giát đồng mà
không hẳn thiên về “đúc” đồng, như tổ tiên Đông Sơn trống
đồng ngày trước, hay Quảng Bố (Vố) - Ngũ Xã tràng (gốc
Hè Nôm - Văn Lâm và chung quanh vùng đó) ngày sau...
25