Page 323 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 323
bằng tiếng Hy Lạp đƣợc bảo tồn ở Bidantium. Việc đó đã làm
cho sự hiểu biết của ngƣời Tây Âu càng đƣợc mở rộng, nhƣng
các nhà triết học kinh viện muốn khai thác kiến thức ấy để phục
vụ cho thần học, do đó đã vận dụng một cách xuyên tạc học
thuyết của các triết gia Hy Lạp và La Mã cổ đại, nhất là của
Arixtốt, ngƣời có thành tích lớn nhất về mặt này là Anbe, một
giáo sĩ ngƣời Đức. Ông đã chú thích toàn bộ các tác phẩm của
Arixtốt thuộc các lĩnh vực Logic học, Siêu hình học, Luân lí học,
Vật lí học, Thiên văn học, Địa lí học, Động vật học, Thực vật
học, qua đó để chứng minh rằng giáo lí của đạo Kitô không hề
trái ngƣợc với triết học và khoa học tự nhiên. Chính vì sự hiểu
biết của ông uyên bác nhƣ vậy, nên ông đƣợc gọi là Anbe vĩ đại.
Triết học kinh viện có một đặc điểm là áp dụng phƣơng
pháp biện luận cực kì rắc rối, rất chú trọng Logic hình thức. Nói
chung các nhà triết học kinh viện cho rằng đối với các hiện
tƣợng tự nhiên ngƣời ta không cần phải quan sát, thí nghiệm mà
chỉ cần dùng phƣơng pháp tƣ duy trừu tƣợng cũng có thể đạt đến
chân lí.
Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu vấn đề khái niệm chung,
các nhà triết học kinh viện đã chia làm hai phái là phái duy danh
(nominalisme) và phái duy thực (réalisme). Phái duy danh cho
rằng khái niệm chung do tƣ duy con ngƣời sáng tạo ra, là tên gọi
của các vật thể riêng lẻ và các vật thể riêng lẻ có trƣớc khái niệm
chung. Còn phái duy thực thì cho rằng trƣớc khi có một vật thể
nào đó thì khái niệm về vật thể ấy đã tồn tại, đã có thực rồi. Nhƣ
vậy, duy thực là chủ nghĩa duy tâm hoàn toàn, còn duy danh là
trƣờng phái có nhân tố của chủ nghĩa duy vật. Chính vì thế, tuy
vẫn tin Chúa nhƣng các nhà duy danh thƣờng bị giáo hội ngƣợc
đãi và rút phép thông công, trái lại những ngƣời duy thực rất