Page 112 - Làng Khoa Bảng
P. 112

tôi yêu thơ và  đặc biệt là  sự chuộng Nôm, sành Nôm
    của các chúa Trịnh, đã  đưa vị trí của chữ Nôm ngang
    hàng với chữ Hán - thứ văn tự vốn được coi là  Quốc
    thông, chmh đạo  (Theo  tác giả  Ngô  Thị Xuân Hồng -
    Đề  tài luận văn cao học).
        Không chỉ Lịch triều tạp kỷ, Ngô Cao Lãng còn để
    lại nhiều  tác  p h ẩ m   quan trọng khác như Lê  triều lịch
    khoa  tiến  sĩ đề danh  bi kỷ,  Quốc  triều xử trí ,Vạn  Tượng
    sự  nghi  lục,  Ngũ  man  phong  thổ ký,  Bắc  kỳ  tạp  biên,
    Thanh Hóa dư đồ sự tích ký,... Sáng tác thơ văn của ông
    được  tập  h Ợ p   trong  các  cuốn:  Viền  Trai  thi  tập,  Viền
    Trai văn  tập.





        Nguyễn Hữu Độ (1813 - 1888)

        ồ n g   là  đ ại  thần  đời  vua  Đồng  K hánh,  tự  Hi
    Bùi,  hiệu  Tông  Khê,  dòng  dõi  nhà  thơ  N guyễn
    Trãi,  quê  làng  N guyệt  V iên,  huyện  H oằng  Hóa
     (nay là  làng  N guyệt Viên,  xã  H oằng Quang,  thành
    phô" Thanh  Hóa).

        Ông  đỗ  Cử nhân năm   1837,  đỗ  Tiến  sĩ năm  1883.
    Làm quan từ Thượng thư đến Phụ  Chmh đại thần, Cơ
    m ật viện đại  thần.

        ô n g   là  người  học  thức  uyên bác,  từng  giữ nhiều
    chức vụ  quan  trọng  trong triều  vua  Đồng Khánh.  Từ
    năm   1880  đến  1883  ông  giữ  chức  Kinh  lược  Bắc  Kỳ
    khi  quân  Pháp  chiếm  Hà  Nội.  Sau  này  ông  là  người
    giữ một vai trò  quyết dịnh cho việc  Đồng Khánh lên



                               111
   107   108   109   110   111   112   113   114   115   116   117