Page 114 - Làng Khoa Bảng
P. 114
Nguyễn Thị Ngu (1854 - 1896). Từ nhỏ đã có tư châ^t
thông mũứi.
Để thoát khỏi cảnh nghèo hèn, ông sớm cùng
người em ruột là Hữu Côn ra làm công ở Hà Nội,
anh em nương tựa, kiếm chôn học hành và kiến thức
được mở rộng nhiều phần. Sau vài năm, ông được
đưa về quê. N hững cử tử trong huyện xếp ông vào
hạng cự phách.
N ăm Bính Ngọ (1906) ông thi đỗ Tú tài. Năm
34 tuổi, khoa thi Kỷ D ậu (1909) ông thi đỗ Giải
nguyên. Đ ến năm Đinh Tỵ (1917), ông được bổ làm
quan tại N iết ty (Ty Á n sát) Nghệ An hàm Bát
phẩm . Hơn m ột nầm sau, khoa thi H ội, ân khoa
cuôT cùng của nhà N guyễn, năm Kỷ M ùi (1919),
ông vào Đình đổTi được ân tứ Ất bảng Tiến sĩ (Phó
bảng). Bấy giờ ông đã 44 tuổi. Triều đình bổ nhiệm
ông làm Thừa phái Bộ Hình, dần dần thăng lên
H àn lâm viện Thừa chỉ.
Ông sáng tác nhiều thơ văn, đôX phú và dịch
thuật. Tiếng hay chữ của ông lẫy lừng thiên hạ, khắp
trong Nam ngoài Bắc.
N ăm N hâm Tuất (1922), ông được bổ làm Tri
huyện Tân Định (Bình Định). Hơn hai năm, ông xm
về kinh, sung chức Tự vụ ở Cơ mật viện. Sau đó, được
thăng Quang lộc tự khanh.
Ông m ất khi đang tại chức ở kũứi đô Huế, ngày
14 tháng 12 năm Ất Sửu (1925), thọ 50 tuổi, ô n g được
ghi dấu là m ột trong hai người cuôl cùng của xứ
113