Page 85 - Kinh Nghiệm Trồng Tiêu
P. 85
- Đau bụng hoắc loạn (dịch tả): Nuốt ba mươi hột tiêu
với nước cơm. Hoặc dùng m ột trăm bốn mươi chín hột
đậu xanh với bôn mươi chúi hột tiêu, nghiền nhỏ, dùng
nước nâ'u mộc qua làm thang, mỗi lần uống một tiền,
(mộc qua tên khoa học là Chacnomeles Lagenaria L. thuộc
họ hoa hồng có trái khi chín dem phơi hay sấy dùng làm
vị thuốc).
- K iết đàm, kiết máu: Tiêu và đậu xanh hai thứ bằng
nhau xay ra bột, nhào với cơm nguội, vò viên bằng m út
đũa. Nếu bị kiết đàm thì uống với nước cơm, còn bị kiết
m áu thì uống với nước gừng (nấu sôi).
- Ho lâu ngày: Dùng trái cật heo mổ ra, dùng tiếu nhét
vào nấu nước uổng và ăn luôn cả xác.
- Bụng trướng, đi cầu không được: Dùng hai mươi mốt
hột tiêu giã nhỏ, sắc với một chén nước còn lại sáu phân,
lọc lại lấy nước, rồi cho vào nửa lượng mang tiêu, nẩu lại
cho tan hết mà ucmg (mang tiêu, tên khoa học là Natrium
Sulíuricum, tức là muôi natri sulíat thiên nhiên, có được
tính chữa bụng trướng, ăn uống không tiêu).
- Trị sâu răng: Tiêu và tất bạt, hai thứ bằng nhau tán
thành bột, nâ'u sáp ong chảy trộn hỗn hợp bột này vào vò
viên bằng hột mè, khi dau răng dùng một viên nhét vào
kẽ răng hay lỗ sâu răng. (Tất bạt tên khoa học là Piper
Logum Lin, tức tiêu lốt, cùng chung họ với cây tiêu).
- An vô mửa ra: Tiêu cân bảy tiền rưỡi, m ột lượng
gừng nướng cháy sém, nấu thật lâu cho gừng chín rồi lấy
nước uống.
- Bị tên, gai nhọn, dằm cây xóc vào thịt: tiêu một lượng,
cơm nguội một nắm, bỏ vào cối đâm cho nhuyễn, xong
đắp lên chỗ bị thương, gai, dằm sẽ lòi ra.
84