Page 166 - Diện Mạo Và Triển Vọng Của Xã Hội Tri Thức
P. 166

nhiên  liệu  hoá  thạch.  Nhưng  chúng  ta  biết  rằng  nguồn

              nhiên liệu hoá thạch là nguồn dự trữ năng lượng mặt tròi
              có được từ vật chất hữu cơ.  Nó phải  mất hàng tỷ năm  mới
              hình thành được, vậy mà con người, mặc dù mới chỉ sử dụng
              nguồn  di  sản  năng  lượng  to  lớn  này  trong  vòng  vài  trăm
              năm nay,  mà có vẻ như đã làm cho nó cạn kiệt trông thấy.
              Cho đến đầu thế kỷ XXI  này, công tác thăm dò địa chất đã
              được  cải  thiện  đến  mức  hầu  hết  những  mỏ  dự  trữ  nhiên
              liệu hoá thạch có khả năng khai thác của toàn cầu đã được

              xác định. Người ta bắt đầu lo lắng rằng, với mức tăng khai
              thác dầu  mỏ trung bình hằng năm của thê kỷ XX là  4,5%
              (từ  300  triệu  thùng vào  năm  1900  đến  24,5  tỷ  thùng vào
              năm  2000  (theo  Deffeyes,  2001))\  thì  nguồn  dự  trữ  năng
              lượng hoá thạch này chẳng mấy chốc mà cạn kiệt.  So sánh
              với mức tăng dân sô" thế giới từ một tỷ người vào năm  1859,
              là năm mà “đại tá Drake” phát hiện ra mỏ dầu đầu tiên có
              khả năng khai thác đưỢc tại thị tran Titusville thuộc bang
              Pennsylvania của  Hoa Kỳ,  đến con  sô" hơn  7 tỷ người hiện

              nay,  và  đến con  sô" ước tính  khiêm  tốn  là  9,1  tỷ người vào
              năm 2100,  thì  chúng ta sẽ thấy khả năng cung cấp nguồn
              lực của  dầu  mỏ cho sự phát triển của các thế hệ tương lai
              trở nên  mong manh  như thê’ nào.  Chính vì vậy  mà  nhiệm
              vụ của khoa học và công nghệ hiện  đại  là  phải tìm  ra các



                  1. Xem I. Anthony Cassils (Viện Dân sô' Canada):  “Overpopulation,
              Sustainable  Development,  and  Security:  Developing  an  Integrated
              Strategy”  (“Dân  số  quá  đông  <hay  ‘nạn  nhân  mãn’>,  phát  triển  bền
              vững và an ninh;  Triển khai  một chiến lược hỢp  nhất”),  Population  and
              Environment, danuary 2004, Vol. 25, no.  3, tr.  183-184.


               166
   161   162   163   164   165   166   167   168   169   170   171