Page 603 - Di Tích Lịch Sử
P. 603

Tông đời thứ 40, có thế danh là Trần Văn Bạch, được cử vê' trụ trì ở chùa Tam Bảo hai
    lẩn: lần thứ nhất từ năm  1962 đến  1970 và lần thứ hai từ  1974 đến  1995. Trong thời
    gian trụ trì chùa Sắc Tứ Tam Bảo trước ngày giải phóng, Ngài cùng Cư sĩ Trịnh Văn
    Minh thường xuyên vận động tài chính mua lương thực, thuốc trị bệnh tiếp tế cho
    Quân Giải phóng qua ngã huyện Gò Quao.
        Như vậy,  chùa Tam  Bảo là một địa danh lịch sử gắn với chiểu  dài cuộc kháng
    chiến của nhân dân ta từ buổi đẩu tiến hành những cuộc khởi nghĩa vũ trang. Chùa
    là nơi ghi dấu những chứng tích lịch sử thể hiện tinh thẩn yêu nước cách mạng của
    nhân dần Kiên Giang nói chung và đổng bào Phật giáo nói riêng. Nói cách khác Sắc
    Tứ Tam  Bảo là một minh chứng cho  đóng góp của đồng bào  Phật giáo, các thế hệ
    tăng ni, Phật tử đối với cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Lẩn đẩu
    tiên vào năm  1915, hoà thượng Trí Thiển cho đại trùng tu lại ngôi chùa với lối kiến
    trúc còn được lưu lại đến ngày nay. Tiếp đó là các năm  1917,  1961,  1972,  1997 đến
    năm 2001. Thời gian trùng tu lâu nhất là thời gian hoà thượng Đại đức Thiện Chơn
    (thế danh Lầm Văn Minh)  trụ trì từ năm  1995  đến nay.  Sau khi vể trụ trì, Đại đức
    Thiện Chơn đã bắt đầu cho trùng tu chùa Tam Bảo như trùng tu Chánh điện (1997),
    Hậu Tổ (1998), Tây lang (1999), xây cất dãy xá cho chư Tăng ni an cư kiết hạ (2000)
    và Đông lang (2001).
        Nếu vào những năm từ  1955 đến  1980, chùa Tam Bảo là trụ sở của Hội Phật học
    Việt Nam thì từ  1981  đến nay, chùa là "Văn phòng Ban Trị sự lỉnh hội Phật giáo Kiên
    Giang và là nơi sinh hoạt Phật sự của tỉnh. Năm 1988, chùa được Bộ "Văn hoá công nhận
    là Di tích Lịch sử Văn hoá cấp Quốc gia. Chùa Sắc Tứ Tam Bảo là một di sản văn hoá quý
    báu của tỉnh Kiên Giang với lối kiến trúc còn nguyên trạng suốt 80 năm qua. Chùa tọa
    lạc nơi cao ráo, thoáng mát, trước cửa chùa có ao sen rộng và hòn non bộ. Trước chánh
    điện là những tượng Phật lớn trang nghiêm, trầm mặc. Chính điện được thiết kế theo
    kiểu thượng lầu hạ hiên. Trong chùa còn lưu giữ được những tác phẩm độc đáo của nghệ
    thuật chạm khắc gỗ như toàn bộ các bao lam trên chính điện được chạm trổ tinh vi theo
    dạng “Lưỡng Long Chầu Nguyệt”,  “Song Phụng Triểu Chầu”, “Bát Tiên”... với màu sơn
    son thếp vàng còn rực rỡ, quần thể tượng gỗ Phật Di Lặc, Chuẩn Để, Địa Tạng, Văn Thù,
    Phổ Hiền, Quan Âm Thế Chí,... được điêu khắc với trình độ mĩ thuật cao.
        Có thể nói, đây là một địa chỉ tầm linh, văn hoá, lịch sử, kiến trúc, điêu khắc mà
    du khách không thể bỏ qua khi đến thăm Kiên Giang.


















                            Một s ố  t>ỉ ticll lịcti sử -  VẲM tioÁ Việt N avm
                                       c    6 1 2   )
   598   599   600   601   602   603   604   605   606   607   608