Page 503 - Di Tích Lịch Sử
P. 503

Thành Nhạc cùng một số phật tử đến vùng đất ven sông Đổng Nai (nay là xã Bửu Hoà,
    thành phố Biên Hoà) dựng lên chùa Long Thiển (1664); nhà sư Thành Trí theo đoàn di
    dân làm nghê' khai thác đá lên vùng núi Bửu Long cùng người Hoa ở đầy dựng lên chùa
    Bửu Phong (1679); nhà sư Thành Đẳng và một số người chèo ghe, thuyền đến Cù lao Phố
    (nay là xã Hiệp Hoà, Thành phố Biên Hoà) khẩn hoang và dựng lên chùa Đại Giác (1665)'.
    Như vậy, chùa Đại Giác là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở khu vực Nam Bộ hiện nay.
        Tương truyền rằng; Đại Giác cổ tự ban đẩu là ngôi chùa có quy mô nhỏ, kiến trúc
    đơn giản với vách ván, cột gỗ, lợp ngói âm dương. Năm  1779, công chúa thứ ba của
    vua Gia Long là Nguyễn Thị Ngọc Anh  trên đường chạy trốn quân Tầy Sơn đã đến trú
    tại chùa một thời gian. Chính vì vậy, ngay sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi đã nhớ ơn và
    ban chiếu chỉ trùng tu ngôi chùa và cho tạc một pho tượng Di Đà lớn cao 2,25m bằng
    gỗ mít, hiện còn lưu giữ tại chùa. Vua Gia Long chỉ dụ cho quan địa phương cho binh
    thợ đến xây cất và cho tượng binh đem voi đến để dặm nền chùa. Vì vậy, sau này còn
    gọi chùa Đại Giác là “chùa Tượng”.
         Năm  1820, vua  Minh  Mạng  lại  cho  tu  sửa  chùa,  công  chúa Nguyễn  Thị  Ngọc
    Anh  đã  cúng một bức  hoành  phi  lớn  khắc ba  chữ  “Đại  Giác  tự”  treo  ở  phía trước
    chính điện. Bên phải của tấm biển có khắc chữ: Tiên triều Hoàng nữ đệ tam công chúa
    Nguyễn Thị Ngọc Anh; bên trái có khắc chữ: Minh Mạng nguyên niên, mạnh Đông, cốc
    đán. Tấm biển này hiện nay vẫn còn nguyên vẹn.
        Năm 1952 (Nhâm Thìn) do lũ lụt, chùa bị mối ăn nhiễu nên Phật tử và bô lão địa
    phương vận động nhân dân đóng góp sức người, sức của để trùng tu ngôi chùa. Tiếp
    đến năm 1960, hoà thượng trụ trì Huệ Minh cho trùng tu, tôn tạo lại toàn bộ hệ thống
    cột, tường bao bằng vật liệu hiện đại tạo nên quy mô, kiến trúc như ngày nay.
        Chùa Đại Giác có diện tích khoảng 3.000m^ với hai cổng ra vào xây bằng gạch,
    xung quanh có tường rào bao bọc. Khởi nguyên, chùa có kiến trúc kiểu chữ Nhị nhưng
    sau nhiều lần trùng tu, tôn tạo, chùa có kiến trúc hình chữ Đinh như hiện nay gổm:
    chính điện, hội trường và Nhà giảng đường nối tiếp nhau. Mặt chính quay theo hướng
    tầy -  bắc, nhìn ra sông Đổng Nai đón gió lành. Phía trước có cây bồ đề lớn trăm tuổi
    xum xuê rủ bóng mát và bức tượng Phật bà Quan âm Nam Hải hiển hậu đứng trên
    tòa sen nhìn xuống chúng sinh.  Bên tả và phía sau là khu vườn rộng trổng cây trái,
    bên hữu là khu Bảo tháp với hàng trăm mộ tháp của các vị trụ trì viên tịch. Sự kết hợp
    giữa cảnh trí thiên nhiên với công trình kiến trúc nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp hài hoà,
    uy nghiêm nhưng gân gũi, thân thiện với con người.
        Vào chính điện chùa Đại Giác phải qua ba cửa lớn, phía trên cửa giữa treo bức
    hoành phi đê’ ba chữ Hán “Đại Giác tự”. Chính điện gổm bốn mái lợp ngói vảy cá, trên
    nóc đắp đôi rồng chầu mặt trời. Mái trước có lầu chuông và lẩu trống có hình tứ giác,
    nền lát gạch bông.  Đây là nơi thờ Phật,  các vị Bổ tát, Ngọc Hoàng thượng đế, Nam
    Tào, Bắc Đẩu, Đức Quan Công, Phán quan... được xếp đặt trang nghiêm, sơn son thếp
    vàng tạo nên một không gian linh thiêng, thanh tịnh. Từ chính điện đi sang hội trường
    bằng hai cửa đối xứng nhau. Hội trường được xây dựng chủ yếu bằng vật liệu hiện đại
     (gạch, xi măng, vôi, cát...), treo  nhiều bức hoành phi bằng gỗ, xung quanh trang trí


                            Mật * ố  bi ticVi lịcVi * v í -  VẲM VioÁ Việt N A m
                                       <  5  1  1  )
   498   499   500   501   502   503   504   505   506   507   508