Page 500 - Di Tích Lịch Sử
P. 500

820) thuộc Chiến khu Đ. Năm  1962, quán triệt đường lối của Đảng, Khu uỷ, Bộ Tư
  lệnh Quân khu miền Đông tiến hành xây dựng khu căn cứ địa để lãnh đạo, chỉ đạo
  phong trào cách mạng trên địa bàn Khu.
      Khu căn cứ  được xây dựng trên đỉnh đổi đất sỏi khá bằng phẳng,  độ dốc thoai
  thoải, diện tích trên 28 hecta, độ cao 20m so với bể mặt suối Linh. Toàn bộ khu đồi
  được bao phủ bởi rừng cây dày đặc trong hệ thống rừng nguyên sinh miền Đông. Một
  phần căn cứ được bao bọc bởi suối Linh.
      Căn cứ Khu uỷ được cấu thành bởi các bộ phận chính như sau:
      Đầu tiên là hệ thống giao thông hào có tổng chiều dài 569m, sầu từ 50 đến 60cm,
  rộng 60cm phân làm ba tuyến: tuyến phòng thủ vòng trong, vòng ngoài và tuyến nội
  bộ phục vụ cho việc canh gác và chiến đấu. ở  nhiều đoạn, giao thông hào được nối
  thông vào cửa hẩm địa đạo.
      Hệ thống địa đạo liên hoàn theo hướng đông bắc và tây nam có  chiều dài trên
  260m, được phân bố chủ yếu ở hai hướng đông bắc và tây nam. Lòng địa đạo có chiều
  cao  1  -   l,8m, rộng 60 -  70cm, đỉnh hình vòng cung, có lỗ thông hơi trổ lên mặt đất
  để lấy không khí vào. Đường đi trong địa đạo tương đối bằng phẳng, có thể di chuyển
  bình thường hoặc khom người, có đoạn phải chui; thiết kế có bậc lên xuống tạo thành
  hai tẩng thuận lợi cho việc thoát hiểm. Nhiều đoạn địa đạo gấp khúc quanh co và các
  ngã ba nối thông nhau hoặc nối lên các cửa hầm.
      Hệ thống miệng địa đạo độc lập chủ yếu dạng hình tròn và hình chữ nhật, độ sâu
  từ 3  -  4m trong các phân đoạn của hệ thống địa đạo. Hệ thống hầm trú ẩn được bố
  trí đểu khắp trên mặt căn cứ, nơi làm việc của lãnh đạo Khu uỷ và các cơ quan trực
  thuộc gổm: văn phòng, cơ yếu, phục vụ, vệ binh... Ngoài ra, trong Khu căn cứ còn có
  hệ thống bếp Hoàng Cẩm và giếng nước phục vụ cho sinh hoạt.
      Nằm ở vị trí thuận lợi cả vê’ phòng thủ và tấn công, với cách bố trí khoa học, Khu
  uỷ miền Đông Nam Bộ đã đứng chần trong suốt thời gian từ 1962 đến 1967, lãnh đạo,
  chỉ đạo phong trào cách mạng trên địa bàn  Khu.  Từ đây,  Khu uỷ,  Bộ Tư lệnh Quân
  khu lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang phối hợp với quân chủ lực Miền làm nên
  những chiến thắng vang dội như:  chiến thắng Phước Thành,  Bình  Giã,  Đổng Xoài,
  Bàu Sắn...  góp phẩn từng bước làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc
  biệt”, “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, Ngụy; mở rộng và bảo vệ căn cứ, chuẩn bị mọi mặt
  cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân  1968.
      Đẩu năm  1964, thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng và Trung ương Cục,
  Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu miển Nam quyết định mở đợt hoạt động hè thu nhằm
  đánh bại hoàn toàn âm mưu bình định ấp chiến lược của địch, phá thế bao vầy căn cứ,
  mở rộng địa bàn đứng chân và hành lang chiến lược từ Chiến khu Đ vê’ hướng Biên
  Hoà, Bà Rịa -  Long Khánh xuống bờ biển Xuyên Mộc. Địa bàn hoạt động là vùng căn
  cứ thuộc tỉnh Phước Thành (Bình Dương) và Vĩnh Cửu (Biên Hoà) bắt đẩu từ tháng
  5 và kết thúc vào tháng 9/1964.
      Sau hơn 4 tháng thực hiện đợt mở rộng hoạt động trên, Chiến khu Đ  đã có một
  căn cứ rộng lớn và vững chắc, đặt cơ sở quan trọng để ta mở chiến dịch Bình Giã (từ

                          Một số ^i tícVi lịcVi svc -  vÃM VioÁ Việt
                                     c   508  >
   495   496   497   498   499   500   501   502   503   504   505