Page 497 - Di Tích Lịch Sử
P. 497
là căn cứ cuối cùng của cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cuối
tháng 1/1973, các đơn vị công binh của Miến bắt đẩu mở các con đường mới cho 3 cục
Tham mưu, Chính trị, Hậu cần (Bộ chỉ huy Miền) di chuyển vê căn cứ Tà Thiết. Ngày
8/2/1973, các con đường ở đây đã nhanh chóng được hoàn tất. Cuối quý 1 năm 1973,
tất cả các cơ quan trong Bộ Chỉ huy Miền và các đơn vị trực thuộc đã ổn định xong
nơi ăn, ở. Tại đây, dưới những tán cầy lớn, xung quanh là những rừng le đan chằng chịt
là những công trình nhà làm việc của các đổng chí chỉ huy cao cấp trong Bộ Tư lệnh
Miển: Tư lệnh Trần Văn Trà, phó Tư lệnh Nguyễn Thị Định, Chính uỷ Phạm Hùng,
phó Tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Lê Đức Anh... Riêng nhà ở và làm việc của
Thượng tướng Trẩn Văn Trà lại được dựng ngoài một trảng trống theo kiến trúc nhà
sàn của đổng bào dân tộc Khơ me nằm đan xen giữa hơn mười nóc nhà của đồng bào
để đánh lạc hướng địch. Cùng với nhà ở và làm việc là hệ thống các công trình phục
vụ khác như bếp Hoàng Cầm, nhà Chính uỷ, hẩm giao ban, hội trường... tất cả đểu
được xây dựng theo lối nhà bán âm (nửa chìm nửa nổi) để vể đêm hạn chế ánh sáng
đèn phát ra ngoài; bên trên được lợp bằng lá trung quân để tránh bị máy bay địch phát
hiện, bốn xung quanh mỗi công trình đểu có hệ thống giao thông hào để thoát hiểm.
Các hầm trú ẩn thường được làm kế cận nhà, chìm vào lòng đất, trên đặt mái bằng.
Những hẩm đặc biệt như hầm chỉ huy, hẩm thông tin, hầm quân y... thường được làm
khá rộng để tiện hoạt động, phòng khi trên mặt đất không an toàn. Giao thông hào chỉ
dành cho một số hẩm đặc biệt nói trên, không phổ biến toàn căn cứ. Các hạng mục
cách nhau từ 50 đến 200m.
Ngày 20/7/1974, tại Hội nghị Quân chính Miền ở căn cứ Tà Thiết, đổng chí Phạm
Hùng, Bí thư Trung ương cục miền Nam thay mặt Trung ương Đảng tuyên bố Quyết
định thành lập Quân đoàn 4, gổm 2 sư đoàn bộ binh 7 và 9, các trung đoàn 24 pháo binh,
71 phòng không, 429 đặc công và 3 tiểu đoàn thông tin. Đổng chí Hoàng Cầm được bổ
nhiệm Tư lệnh quân đoàn 4. Đây là sự kiện quan trọng làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ vì
nó đánh dấu bước trưởng thành mới của chủ lực Miển. Nhưng cán cứ Tà Thiết sau đó
còn mang những sự kiện lịch sử đặc biệt hơn. Thứ nhất, đây là nơi từng diễn ra các cuộc
hội họp và tiếp các phái đoàn cao cấp của Bộ Chính trị, Bộ trưởng tham mưu - Trung
ương Cục miến Nam. Thứ hai, đặc biệt hơn, cũng tại hội trường này, ngày 8/4/1975,
đổng chí Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị phổ biến Nghị quyết 7 của Trung ương
Đảng vể việc thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Thứ ba,
để có một tên gọi xứng tầm với một chiến dịch lớn nhất và có ý nghĩa nhất kết thúc cuộc
chiến tranh trường kì 21 năm chống Mỹ, Bộ Chỉ huy chiến dịch để nghị Trung ương
đặt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Đáp ứng nguyện vọng đó, Bộ Chính trị
đồng ý đổi tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định thành chiến dịch mang tên
Bác - Chiến dịch Hồ Chí Minh, bằng bức điện 37 TK do Tổng Bí thư Lê Duắn kí. Bức
điện lịch sử đó đã được phổ biến cũng tại Hội trường này.
Như vậy, căn cứ Tà Thiết đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử là căn cứ cuối cùng của
Quân uỷ và Bộ Chỉ huy Miển; không chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ và phát triển các hoạt
động của Bộ Chỉ huy Miền, một căn cứ dự trữ hậu cần chiến lược, mà còn là căn cứ
Một »ố t>i ticVt lịcVi $ừ - vÃti VioẢ Việt
c 505 )