Page 418 - Di Tích Lịch Sử
P. 418

áp sát chân núi, cách Quốc lộ 1A khoảng 3km vể phía đông. Do vậy, khách theo Quốc
         lộ  lA vào Nam hay ra Bắc đến đoạn này đểu có thể thấy rõ núi Thiên An. Muốn ghé
         thăm Thiên Ấn, từ ngã ba đẩu cầu Trà Khúc trên Quốc lộ  lA, du khách rẽ sang Quốc
         lộ 24B vê' hướng đông rổi chạy xe khoảng năm, mười phút là đến chân núi. Đường lên
         đỉnh Thiên Ấn xoắn ốc theo chiểu kim đổng hổ, độ dốc không cao, lòng đường rộng,
         đã trải nhựa nên xe các loại đểu lên xuống dễ dàng.
             Sở dĩ ngọn núi cao  lOlm so với mực nước biển này có tên Thiên Ấn là vì đỉnh
         núi rộng, bằng phẳng, bốn phía sườn có hình thang cân, nhìn xa ngọn núi như chiếc
         ấn vuông vức của trời cao đặt cạnh dòng sông Trà Khúc trong xanh. Chân núi vể phía
         nam có gò nhỏ gọi là hòn Triệu, phía bắc có núi La 'Vọng, phía tây giáp núi Long Đầu
         và phía đông giáp núi Tam Thai. Niên hiệu Minh Mạng 11 (1830), hình núi được chạm
         vào Di đỉnh. Niên hiệu Tự Đức 3 (1850), Thiên Ấn lại được chọn vào hạng danh sơn
         và ghi vào điển tịch.
             Sườn núi Thiên Ấn có nhiều cỏ tranh, phía đông sườn núi có chùa Thiên Ấn cổ
         kính  nằm giữa những bóng cây cổ thụ rậm  rạp, được khởi công xây dựng vào  năm
         1694 và hoàn thành vào  cuối năm  1695  (năm  Chính  Hoà thứ  15,  đời chúa Nguyễn
         Phúc Chu ở Đàng Trong). Tổ khai sinh chùa là thiền sư Pháp Hoá (1670 -   1754), tục
         danh Lê Diệt, hiệu Minh Hải Phật Bảo, gốc người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, thuộc
         dòng Thiển  Lâm  Tế.  Lúc  đẩu  chùa  chỉ là  một thảo  am  tĩnh  mịch,  sau đó  được  dần
         trùng tu mở rộng thu hút được nhiều tăng ni phật tử và trở nên nổi tiếng. Đường lên
         Thiên An tự được mở rộng vào năm  1930, xoáy hình trôn ốc. Quanh sườn đồi lên tận
         đỉnh có những hàng dương liễu vi vu, có tàng cây cổ thụ rỢp bóng quanh năm che tháp
         các vị Tổ...
             Năm Vĩnh Thịnh thứ  11  (1717, đời vua Lê Dụ Tông), chúa Nguyễn Phúc Chu đã
         ban cho nhà chùa biển ngạch Sắc Tứ Thiên Ấn Tự. Tấm biển này sau đó bị hư hại và
         được thiển sư Hoàng Phúc tái tạo vào năm  1946. Từ khi khai lập đến nay, chùa đã có
         15 đời sư trụ trì, trong đó có 6 vị được suy tôn là sư tổ, gọi chung là lục tổ.
             So với các ngôi chùa cổ trong Nam ngoài Bắc, kể cả chùa ông Thu Xà, chùa Thiên
         Ấn không nổi bật lắm vê' kiến trúc nội thất, trừ nhà phương trượng được xây dựng
         theo kiến trúc nhà rường, vốn là bộ khung mua lại của đình làng Phú Nhơn.  Bù lại,
         chùa được xây dựng ở một vị trí có một không hai, đó là đỉnh đôi Thiên Ấn -  một thế
         đất thiêng trong tâm tưởng của người dân Quảng Ngãi.
             Ngoài khuôn viên nhà chùa, trên khoảng đất thoáng đãng phía tây có phân mộ
         của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, người đã gắng bó máu thịt với đất Quảng Ngãi thuở
         bình sinh. Ngày 21/5/1947, cụ Huỳnh lâm bệnh nặng và mất tại thôn Phú Bình, xã
         Hành  Phong,  huyện  Nghĩa  Hành,  tỉnh  Quảng Ngãi.  Thể theo  tâm  nguyện  của  cụ,
         nhân dần đã an táng cụ trên đỉnh núi Thiên Ấn.  Mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng  cách
         cổng  Tam  quan  chùa Thiên  Ấn  chừng  lOOm vể hướng tầy nam,  thuộc  địa bàn  xã
         Tịnh Ấn Đông, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ngôi mộ được trùng tu vào các
         năm 1959,1971 và 1994. Năm 1971, người ta đã lập bia đê' thơ ca tụng sự nghiệp của
         cụ Huỳnh.


                                Một số bi ticV) lỊcVl sử -  VÃM tioÁ Việt N avm
                                           C   4 2 4   )
   413   414   415   416   417   418   419   420   421   422   423