Page 202 - Di Tích Lịch Sử
P. 202
bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của
người Việt cổ”.
Thành có 3 vòng. Chu vi vòng ngoài là 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong l,6km.
Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp
đến đâu, lũy xảy đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong xoài để ngoài
đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 - 5m, có chỗ 8 - 12m.
Chân lũy rộng 20 - 30m, mặt lũy rộng 6 - 12m.
Xung quanh Cổ Loa có một mạng lưới thủy văn dẩy đặc, tạo thành một vùng
khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy,
sông Thiếp - Ngũ Huyền Khê - Hoàng Giang thông với sông Cẩu ở Thổ Hà, Quả
Cảm (Hà Bắc); thông với sông Hổng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Ngay sau khi xây
thành, Thục An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa
phương đóng thuyền chiến. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện, chế
tạo côn, kiếm, giáo, mác và nỏ liên châu, mỗi phát bắn nhiều mũi tên. Có nhiều
bằng chứng khảo cồ về sự tồn tại của hàng chục vạn mũi tên đông có thể dùng nỏ
liên châu ở đây.
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự
nhiên. Họ tận dụng chiểu cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên
hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn
theo địa hình chứ không theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người
xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ,
vừa là nguổn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng.
Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng
làm nơi tụ họp cho hàng trăm thuyển bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được
dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đẩm
được kè nhiểu đá hơn. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền
khác đến. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau,
nhiểu nhất là ở chần thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ
học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lổ gổm ngói ống, ngói bản, đẩu ngói, đinh
ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau và ngói được trang trí nhiểu loại hoa
văn ở một mặt hay hai mặt.
vể mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ
trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu
rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua,
triều đình và kinh đô. Đổng thời đây cũng là một căn cứ kết hỢp hài hoà thủy binh
cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng
bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
Vế mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành cổ
Loa là một chứng cứ vê' sự phân hoá của xã hội thời ấy. Thời kì này, vua quan không
những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập
Một tè í>i ticVi lịcíi sử - VẰM tioẮ Việt Nam
C 205 >