Page 14 - Di Tích Lịch Sử
P. 14
xung quanh bó đá tảng xanh chia làm ba cấp, mái đình lợp ngói mũi hài to bản, bốn góc
là những đầu đao cong vút. Đẩu bờ nóc uốn quanh hình lưỡi liếm, góc mái có gắn nghê,
thú nhỏ bằng sành nung già lửa đỏ tía. Có tất cả 22 đẩu bẩy lực lưỡng, chạm rồng, mây,
nghê, thú rất trau chuốt. Bái đường chia làm 7 gian, 48 cột lim, bộ khung mái chạm trổ
tinh vi, nhiểu cảnh trí sinh động. Đặc biệt có khá nhiểu hình thiếu nữ mặc váy dài, yếm,
tóc búi hoặc chít khăn với nét mặt rạng rỡ trong tư thế cưỡi phượng, đè rổng, hoặc đang
nhảy múa giữa các lớp mầy bổng hểnh. Lòng bái đường lát đá xanh nhẵn bóng. Bức cửa
võng thếp vàng chạm trổ lộng lẫy làm cho bái đường càng thêm trang nghiêm cổ kính.
Trong đình có ba tấm bia to: Thủỵ tạo đình miếu bi nói vê' việc xây dựng đình,
Cung sao sự tích thánh (Lão Tử) nói về sự tích Thành hoàng Thái thượng Lão quần,
Bia sao sắc phong sao các đạo sắc của các triều đại trước phong tặng. Ngoài ra còn có
các bia khác quy tập tại đình nói về những điểu lệ trong dân đã quy định.
Đình Thổ Hà được xây dựng vào thế kỉ XVII (năm 1686). Mặt chính của đình
trông thẳng ra sông Nguyệt Đức (sông Cầu).
Thông qua tài liệu “đình Thổ Hà”, ta sẽ biết đến vị Thành hoàng làng là Thái thượng
Lão quần. Theo thần tích của làng, ông là người phương Bắc sống vào thời An Dương
Vương, họ Lý tên Đam (còn gọi là Lão Đam, Lao Tử), ông có công giết giặc Xích
Quỷ, có công mở trường dạy học ở làng, ông được các triều đại phong kiến phong
là Thượng đẳng Thẩn và Thành hoàng Thái thượng, cho phép làng Thổ Hà lập miếu
phụng thờ. Dân làng đã tôn ông làm thành hoàng, mong ông phù trỢ cho cuộc sống
của dân làng bình an, hạnh phúc.
Theo các văn bia và trên một số cấu kiện của kiến trúc có ghi thì đình Thổ Hà
được khởi dựng vào năm 1685. Kiến trúc đình Thổ Hà rất đặc biệt, gổm 3 nếp nhà là
tiền tế, đại đình và hậu cung.
Đại đình gồm 5 gian, 2 chái. Thành phẩn chịu lực chính là bộ khung gỗ, gốm 48
chiếc cột, trong đó có 8 cột cái, 16 cột quân và 24 cột hiên. Liên kết ngang của ba gian
giữa là 4 bộ vì. Dọc theo lòng nhà, có ba hàng xà kép: xà thượng, xà trung và xà hạ.
Giữa các hàng xà được bưng ván gió. Để mở rộng lòng, các nghệ nhân thời xưa đã đặt
hai bộ vỉ lửng ở hai gian bên. Trên xà đùi, nối các cột cái và cột quân. Hai gian bên ở
hai hồi. Người ta đặt cột trốn, rổi gác bộ vì lên trên. Vi này làm theo kiểu chổng rường,
các con rường được xếp chống lên nhau qua và được chạm trổ.
Tiền tế làm theo kiểu bốn mái cong, lợp ngói mũi hài, bờ nóc và bờ dải gắn hộp
hình hoa chanh. Tiến tế gồm 3 gian 2 chái. Bộ khung được kết cấu bởi 4 hàng cột, thân
cột được làm nhỏ mảnh. Hai vì nóc gian giữa làm theo kiểu giá chiêng. Hai vì nóc hai
bên làm theo kiểu chổng rường. Vì nách gian giữa làm theo kiểu kẻ ngồi dưới, kẻ có
bẩy đua ra đỡ mái hiên. Vì nách hai gian trái làm theo kiểu chổng rường.
Hậu cung gồm 3 gian, kiến trúc khá đơn giản. Vi nóc làm theo kiểu giá chiêng.
Cấu tạo bộ vì giống với bộ vì của gian tiển tế. Trên các cấu kiện của hậu cung không
có hình trang trí. Hậu cung làm theo kiểu “tường hổi bít đốc”, hai hồi đắp hình hổ phù,
bờ dải làm theo kiểu ‘Tong đình”. Đây là lối kiến trúc có niên đại muộn, phổ biến vào
cuối thế kỉ XIX.
Một tố tíctt lỊcVi sừ - VẢM tioẢ Việt Nikm
c 15 >