Page 11 - Di Tích Lịch Sử
P. 11

mồng 9 tháng 6 năm Kỉ Tỵ (1749), thọ 61 tuổi. Năm  1754 vua phong ông là Phúc thần
         trung cẩn đại vương. Lăng được chính Quận công xây dựng tại quê nhà khi còn sống.
            Lăng nằm trên một quả đồi hình tròn rộng khoảng một hécta có tường gạch bao
         quanh (ngày xưa là tường đá ong bao quanh). Vào cổng là hai tượng quan hầu cẩm dùi
         đổng.  Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm ba phần chính: phần mộ táng ở giữa,
         phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Tượng người và vật tại lăng làm bằng đá
        xanh được chạm khắc rất sống động, tượng có kích thước lớn, hình khối mập, chắc và
         được tỉa công phu.
            Qua cổng lăng là vườn cây ăn quả,  rổi đến cổng vào.  Phần mộ có hai võ sĩ dắt
         ngựa hầu hai bên. Tường bao bằng gạch bao quanh một ngọn đồi hình tròn. Trước
         đây  tường bao  quanh  làm  bằng  đá  ong  cao  2m,  sau  bị  đổ  nát,  nay chỉ  còn  móng
         tường. Phía trước cổng, xưa có là một hồ nước xưa kia rất lớn, nhưng nay diện tích
         hồ  bị  thu  nhỏ  lại.  Toàn  khu  lăng  nằm  trên  một  ngọn  đổi  rất  hỢp với  phong thủy.
         Tượng quan hầu đứng bên trái cổng, được tạo tác công phu. Ngai thờ nhìn từ phía
        bên  phải gồm  những khối  đá lớn.  Có  hai  con  nghê  đá  nhỏ  nhắn  nằm  chấu,  được
         chạm khắc tinh tế và sinh động.  Lăng Dinh Hương có hai pho tượng quan hầu nữ.
         Hai tượng này nhỏ nhắn hơn so với các khối tượng có ở làng, nhưng được khắc hoạ
         rất chi tiết như tượng chần dung.  Hai tượng được bố trí đứng ở hai góc ngoài cửa
         đàn tế, quay mặt vào nhau. Đây là những tượng hầu nữ được nghệ sĩ tạo khắc có vóc
         dáng riêng như chép từ nguyên mẫu thật, rất sống động và ấn tượng.  Quan hầu nữ
        bên  trái bưng chiếc  tráp  khối hộp  chữ  nhật  ngang bụng,  bàn  tay trái  đỡ dưới hộp
         tráp, tay phải giữ ngang đầu hộp, để hở nửa bàn tay với những ngón thon dài, đẹp
         như vẽ.  Quan  nữ  cẩm quạt đứng hẩu bên  phải  ngai  thờ tay cầm  quạt,  đầu đội mũ
         ni có chóp nhọn như một chiếc nón nhỏ, nửa phía sau mũ có bốn lớp vải trùm kín
         chân tóc, phủ xuống kín tai và gáy.  Phần mộ  rộng khoảng  lOOm^ có tường đá ong
         dày bao quanh, là nơi lưu giữ thi hài Quận công La Đoan Trực, có hai võ quan dắt
         ngựa đứng canh. Cặp tượng quan hầu dắt ngựa được xem là những kiệt tác của nghệ
         thuật chạm khắc đá.  Tượng thú được coi trọng vào  cách tạo  khối trên  thân, khiến
         con vật trở nên đậm chất hiện thực. Một số mảng chạm tỉ mỉ và mang tính cách điệu
         cao như phần yên cương, bờm con ngựa. Võ quan đeo gươm, dắt ngựa phía bên phải
         có mặt to, hàm rộng. Võ quan đeo gươm, dắt ngựa phía bên trái có râu dài, mặt nhỏ.
             Phía bên phải khu mộ là nhà bia trổ 4 cửa quấn vòm, trong đặt bia đá ghi công
         trạng người được thờ được tạo vào năm  1729.
             Nhìn  tổng quan,  chất liệu tạo  dựng  công trình  kiến  trúc  nghệ  thuật lăng  Dinh
         Hương chủ yếu bằng đá xanh, được đục đẽo, tỉa tót tinh xảo, là một công trình kiến
         trúc đổ sộ, được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện. Quần thể lăng mộ là
         công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang. Các cổ vật
         trong làng được giữ gìn tương đối nguyên vẹn.
             Điểm nổi bật, độc đáo của lăng Dinh Hương là các bức tượng đổ sộ, to hơn hẳn ở
         các lăng mộ khác, được chạm khắc tinh tế. Theo thống kê, ở Bắc Giang đã phát hiện và
         công nhận 46 công trình kiến trúc đá cổ, chủ yếu là lăng đá. Hệ thống lăng đá là minh

                                Một s ố  b i tícVi lịcVi s ử  -  VÀM VioÁ Việt N^m
                                           c  12  )
   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16