Page 75 - Các Đại Công Thần Trong Lich Sử Việt Nam
P. 75

16  Tủ sách  ‘Việt Nam - đắt nước, con người'


            Có  thể  nói  tư tưởng  quán  xuyến  suốt đời  của Trần  Hung
        Đạo, là một tấm lòng tận tụy đối với đất nước, là ý muốn đoàn
        kết  mọi  tầng  lớp  trong  dân  tộc  thành  một  lực  lượng  thống
        nhất, là tinh thần yêu thưong dân. Cho nên trước khi mất, ông
        vẫn  còn  dặn  vua Trần  Anh  Tông rằng:  “Phải  nới  sức  dân  để
        làm  kế sâu  rễ  bền  gốc”  cho  sự nghiệp  lâu  dài  của  nước  nhà
        (Nguyễn Huệ Chi, tr.  1799).

            Sử liệu liên quan
            Vi nước, quên thù nhà
            Năm Đinh Dậu (1237), Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần  Liễu
        (cha  Trần  Hưng  Đạo)  phải  nhường  vợ  là Thuận  Thiên  Công
        chúa (chị  của Lý  Chiêu  Hoàng)  cho  em  ruột  là  vua Trần  Thái
        Tông (Trần  Cảnh)  dù  bà này đã có thai với Trần  Liễu  được ba
        tháng, đồng giáng Lý Chiêu Hoàng (đang là Hoàng hậu) xuống
        làm Công chúa.  Phẫn  uất, Trần  Liễu  họp quân làm loạn. Trần
        Thái  Tông  chán  nản  bỏ  đi  lên Yên  Tử.  Sau  Trần  Liễu  biết
        không  làm gì được  phải  đóng giả  làm người đánh cá trốn lên
        thuyền vua Trần Thái Tông xin tha tội. Trần Thủ Độ biết được,
        cầm gưom đến định giết Trần  Liễu  nhưng Thái Tông lấy thân
        minh  che  cho  Trần  Liễu.  Trần  Liễu  được  tha  tội  nhưng  quân
        lính theo ông đều bị giết*'*. Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm
        khắp những người tài  nghệ để dạy Trần  Quốc Tuấn  (tức Trần
        Hưng  Đạo).  Lúc  sắp  mất,  ông  cầm  tay  Quốc  Tuấn,  trăng  trối
        rằng:  ”Con  không  vì  cha  lấy được  thiên  hạ,  thì  cha  chết dưới
        suối váng cũng không nhắm mắt được”. Quốc Tuấn ghi để trong
        lòng,  nhưng  không  cho  là  phải.  Đến  khi  vận  nước  lung  lay,
        quyền quân quyền nước đều do ở mình, Trần Quốc Tuấn đem
        lời  cha  trăng  trối  để  dò  ý  hai  thuộc  tướng  thân  tín  là Dã




         ’ Lược kể theo Đại Việt sứ kỷ toàn thưịtậỹ 2), tr. 33-34.

                                                                       I
                                                                      i
   70   71   72   73   74   75   76   77   78   79   80