Page 22 - Bệnh Cao Huyết Áp
P. 22
máu và độ dài của mạch (độ dài của mạch nói chung
không thay đổi tuy vậy nếu có các chấn thương sẽ sinh
ra tuần hoàn bàng hệ, thì độ dài đó có thể thay đổi và
đó cũng là nguyên nhân làm tăng sức cản ngoại vi).
Sức cản đó còn phụ thuộc trực tiếp vào khí hậu
nóng lạnh, vào độ sừng hoá của da, bền vững của thành
mạch (tính đàn hồi) (khí hậu nóng các mạch ngoại vi
giãn nở, lòng mạch rộng ra khí hậu lạnh các mạch ngoại
vi co lại, lòng mạch hẹp lại).
Cung lượng tim lại có liên quan với nhu cầu chuyển
hoá oxy. Có nghĩa là: Khi mức tiêu thụ oxy ở tổ chức
càng lớn thì cung lượng tim càng tăng. Vì có như vậy
mới đưa máy tới tổ chức để cung cấp oxy và chất dinh
dưỡng theo yêu cầu cơ thể.
Khi nồng độ oxy trong động mạch càng tăng, hiệu
số (Ca02 - CVO2) càng lớn thì cung lượng tim càng lớn.
Khi nồng độ oxy trong tĩnh mạch càng tăng, hiệu
số (CaƠ2 - CVO2) càng nhỏ thì cung lượng tim càng lớn.
Khối lượng máu đẩy vào động mạch của một lần co
bóp phụ thuộc vào sức co bóp của tim và số máu có sẵn
trong thất trái.
Số máu có sẵn trong thất trái sau một lần thất giãn
người ta gọi là thể tích máu cuối thì tâm trương thất trái.
Sức co bóp của tim chịu ảnh hưởng của một bộ
phận chuyên biệt mà người ta gọi là cảm thụ Beta
Adrenergic hay còn gọi là Beta giao cảm.
Khi cảm thụ này bị kích thích sẽ làm tăng sức co
bóp của tim. Ngược lại, khi cảm thụ này bị ức chế sẽ
làm giảm sức co bóp đó. Chất lượng của sự co bóp tống
máu của thất trái được thể hiện ở phân số tống máu.
Phân số tống máu là tỷ lệ giữa thể tích tống máu
'Sộ.hIì cao fu(Ị/èi áfi và cách điều ivị 23