Page 411 - Các Tổng Tư Lệnh Chiến Trường Nhật Pháp Trong Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Việt Nam
P. 411
Chưcfng 9: DE CASTRIES 405
Luang Prabang, Xiêng Khoảng trực tiếp chi viện hỏa lực và bảo
đảm việc tiếp tế vận chuyển.
Ông ta nghĩ như tất cả mọi chiến hữu của ông là đối phương
không bao giờ có vũ khí hạng nặng. Nếu do phép lạ náo mà họ
mang vũ khí nặng đến được thì chính đại bác của ông ta sẽ
nhanh chóng dập nát chúng. Khả năng vận chuyển của Việt
Mứìh nhiều lắm là 600 xe Molotova, mấy chiếc GMQ 7.000 xe bò,
xe cút kít, 1.800 xe đạp với cự ly 400km, trung bình 150 tấn/ngày
không thể bì được với khả năng tiếp tế của ông. Riêng trong
ngày 14-3 đã bảo đảm được 6.726 tấn hàng, gấp 45 lần khả năng
đối phương.
Điện Biên Phủ chưa có gì ngã ngũ, hai đâu thủ chờ giây
phút đôl phương tự bộc lộ. 11 giờ 30 phút ngày 1-1-1954, chiếc
Dakota hạ cánh xuống sân bay chở theo một đoàn gái điếm
“món quà mừng năm mới của Cogny” gửi tặng binh sĩ Pháp và
lírứi lê dương. Castries nói với Guilain, đặc phái viên báo Le
Monde. “Bọn Việt chịu xuống lòng chảo thì chúng tôi nắm
được chúng rồi”. “Cuộc đụng độ có thể gay đấy, chúng tôi sẽ
chịu được chúng, và rút cục chúng sẽ có được cái mà chúng tôi
vẫn thiếu”.
Ngày 5-1-1954, nhà văn Graham Greene được mời dùng
bữa với De Casưies. Tại bàn ăn, đại tá Piroth nói về Nà sản.
Castries với gương mặt đầy góc cạnh giống như diễn viên
Emest Milton, vừa đấin mạnh xuống bàn vừa kêu lên với một
sự cuồng nhiệt mà Greene cho là giống trong bi kịch
Shakespeare ngắt lời: “ông im đi! Tôi không muốn nghe ai nhắc
đến tiếng Nà sản. Nà sản là một cum cứ điểm cố thủ. Còn
chúng ta đang ở căn cứ xuâl phát tẩh công”. Mọi người im lặng
với vẻ ngượng ngập.