Page 316 - Các Tổng Tư Lệnh Chiến Trường Nhật Pháp Trong Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Việt Nam
P. 316
Chương 6: RAOUL SALAN 307
bản nằm trong yếu tố “châp nhận”. Salan châp nhận làm phó
cho Leclerc, Valluy, De Lattre và Paul Ély trong khi chờ đợi đến
phiên mình nắm giữ binh quyền”.
Về những thâ"t bại của Salan trên chiến trường Đông
Dương và bi kịch đánh mất “xứ Thái tự trị”, để nền bảo hộ
Vương quốc Lào của đế chế Pháp bị uy hiếp trong chiến dịch
Tây Bắc năm 1952, “nhà bình luận” viết tiếp: “Salan áp dung
chiến thuật phòng thủ di động giống chủ trương phòng ngự co
giãn của Eric Von Manstein (chiến lược gia, thống chế xuâl sắc
nhâl của Đức quốc xã, người đã triệt hạ pháo đài Sebastopol
của Nga tháng 5-1942, bị Hitler xử tử vì bỏ đất), vì hiểu rằng
trong chiến tranh thảo nguyên hay chiến tranh rừng núi, trước
hết là một thứ thủy chiến, đồng cổ mênh mông và rừng rậm
đen sẫm như đại dương, chiếm đất khi kẻ thù có thể xuâl hiện
từ mọi phía là vô ích. Phải bảo toàn lực lượng để có thể phản
kích hất kỳ lúc nào với tất cả sức lực, đánh trả đối phương
những đòn chí mạng là điều cần thiết rửiất. Định mệnh của
Salan trên chiến trường là do bị thời gian áp đảo, không phải
là định mệnh của một chiến lược quân sự. Thât bại của Salan
là thất bại của đế quốc Pháp ưước thời gian không phải của
Quân đoàn viễn chinh trên chiến trường. Salan giống như một
võ sĩ đánh bôc, luôn thủ thế, đưa găng lên che mặt rồi rìrứi rập
bât ngờ giáng ưả những đòn tuy không quyết định nhiíng có
thể đẩy lùi đôl thủ ra xa”. Theo như lời bình luận này thì trên
chiến trường Đông Dương với vai trò là Tư lệnh hành quân,
Tổng tư lệnh quân viễn chinh, Salan chưa bao giờ thua. Với
những tổn thâl hàng nghìn, hàng chục nghìn quân trong một
chiến dịch, những cuộc chạy dài của quân đội viễn chinh đều
nằm trong ý đồ chiến Iược của ông ta. Nếu có thât bại thì cũng