Page 113 - Văn Khấn Cổ Truyền Của Người Việt
P. 113
cưới hỏi tùy theo phong tục từng địa phương, về tục này, có thê diễn
ra theo hai hướng sau đây:
Hướng thứ nhất: lễ ăn hỏi. Có địa phương nhà trai sau khi chọn
ngày tôt, đem một buồng cau sai quả, to đều đẹp, chè ngon. Sô lễ vật
này được đặt vào quả tráp đậy nắp hoặc phủ vải đổ và cho nam nữ
thanh niên chưa vỢ, chưa chồng đội đến nhà gái. Khi đến nơi, bà môi
hoặc đại diện nhà trai (thường thì cha mẹ chú rể) có lòi xin phép nhà
gái được bày lễ trên bàn thờ. Nhà gái đồng ý và thắp hương trình báo
xin tố’ tiên phù hộ độ trì cho con gái hạnh phúc trăm năm, sinh con
đàn cháu đống. Hai bên thông gia trò chuyện đồng thời nhắc lại ngày
giò cưối gả để chuẩn bị cho kỹ hơn. Khi hương tàn, nhà trai xin phép
nhà gái ra về. Nhà gái hạ lễ, đem buồng cau xuôKg, dùng tay (không
dùng dao cắt) bẻ một cành khoảng 10 - 15 quả và ít chè cho vào quả
biếu lại nhà trai, gọi là quả. Khi nhà trai thu dọn quả ra vể, luôn
thận trọng không đậy nắp phủ khăn vải đỏ như trước. Đây là điêu
kiêng ky khi thu dọn quả, kiêng như vậy nghe nói làm cho cuộc hôn
nhân của đôi trai gái mãi mãi tô't đẹp trong mai sau, Số cau còn lại
nhà gái đem biếu mỗi nhà trong dòng họ hàng một quả, gọi là "chia
cau", với cái nghĩa thông báo cho ho hàng rằng, con gái ínình đã có
nơi có chốn, để không ai còn "nhòm ngó" đến con gái mình nữa. Đe
nhấn mạnh thêm điều này, nhà gái còn mời bà con lôl xóm đến nhà
uống nước ăn trầu.
Hưống thứ hai: Có địa phương lễ ăn hỏi lại tiến hành theo nghi
thức khác. Sau khi chạm ngõ, thường nhà gái căn cứ vào hoàn cảnh
của đôi bên mà "thách" cưới. Người xưa thường đặt ra số lễ vật là số
lẻ như 3 lễ, 5 lễ, 7 lễ, cá biệt có đám thách đến 9 lễ. Các lễ vật gồm:
Buồng cau, trầu thuôc, bánh nếp (có thể là bánh đậu xanh, bánh
côm, ở nơi thị thành là bánh phu thê bánh vỢ chồng, bánh dẻo, bánh
nướng cũng còn tùy theo phong tục từng địa phương), rượu chai cũng
có thê là lễ mặn như xôi gà hay xôi thịt, chè khô. Các lễ vật này đựng
trong quả sơn son, có nắp đậy hoặc trên những mâm son nhỏ có phủ
vải đỏ. Ngoài ra còn có lễ vật bằng tiền mặt, người xưa có thế thách
tiền bạc hay tiền đồng, nay là tiền giấy, số^ tiền này để nhà gái trang
trải trong ngày cưối của con gái. số tiền này thường được chuẩn bị
theo sô' lẻ đẹp, như số 5 hoặc sô' 9 (như 90 đồng, 99 xu hay 95 đồng 95
xu. hoặc 5 đồng, 9 xu (tiền xưa)..., ngày nay có thế là 1.599.000
m