Page 110 - Văn Khấn Cổ Truyền Của Người Việt
P. 110
Con lạy bà Mụ thứ 11, 12 thu hết sài đẹn của cháu đổ ra biển
ra sông ra ngòi.
Con lạy bà chúa Bào thai, 12 bà Mụ, chấp khấn, chấp lễ, chấp
kêu, chấp cầi: phù hộ cho cháu bản mệnh binh an, hay ăn chóng
lớn, bôn mùa đều được điểu hòa, thân căn cụ túc, trí tuệ thông
minh sáng láng, sau này học hành giỏi giang tấn tới, công thành
danh toại, là người có ích cho gia đinh, xã hội,...
Kinh mong bà chúa Bào thai và 12 hà Mụ chứng minh công
đức, chứng giám lòng thành.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam. mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phát!
II. VĂN KHẤN cưởl HỎI
Cưới hổi là việc lớn của đời người, đó không chỉ là việc hai người
lấy nhau mà còn là việc hai họ dựng vỢ gả chồng cho con cái. Tục lệ
này thề hiện tính cộng đồng rõ nét trong văn hoá Việt Nam.
Việc cưới hỏi tuy là của hai người nhưng lại kéo theo việc xác. lập
quan hệ giữa hai gia tộc. Vì vậy, điều cần làm đẩu tiên chưa phải là
lựa chọii một cá nhân cụ thể, mà là lựa chọn một dòng họ, một gia
đình xem có tương xứng không, có môn đăng hộ đốì không.
Đối với cộng dồng gia tộc, hôn nhân là công cụ duy nhất và
thiêng liêng đê duy trì dòng dõi và phát triển nguồn nhân lực. Là
những cư dân trồng lúa nưốc thì khi xem xét con người trong hôn
nhân, điều phải quan tâm trước hết là năng lực sinh sản của đôi bên.
Người xưa kén dâu, phải chọn người thắt đáy lưng ong, vừa khéo
chiều chồng, vừa khéo nuôi con. Người phương Đông rất coi trọng
việc duv trì nòi giông nên năng lực sinh đẻ của người phụ nữ được
chọn làm vỢ cũng phải mạnh mẽ dồi dào. Dân gian có hàng loạt câu
nói về tiêu chí này: Mua heo chọn nái, lấy gái chọn dòng; Ãn mày nơi
cả thể, làm rê nơi nhiều con; LâV con không ngừng xem nạ (nạ có
nghĩa là mẹ). Chẳng thế mà có tục "giã côi đón dâu" và tục trải chiếu
cho lễ hỢp cẩn: gia đình nhờ một người phụ nữ đứng tuổi, đông con có
cả trai lẫn gái, phúc hậu, vỢ chồng song toàn vào trải chiếu cho cô
VA
- y V V V