Page 78 - Bệnh Trầm Cẩm
P. 78
4 Tủ sách Y HỌC PHỔ THÒNG
nhiên được thấy sau một biến cố y khoa cấp như sau
một cơn đau tim. Điều đáng ngạc nhiên là: tần số cúa
nó là không cao và điều đáng quan tâm là sự dai dáng,
tUc là sau một năm xáy ra sự kiện, vẫn có hơn 70% bệnh
nhân còn trầm cảm. Không những chỉ có trầm cảm mà
chúng còn gây ra những hậu quả về chức năng như là
không có khá năng trỏ lạị công việc, hoặc những hoạt
động trước đây, khó khăn về tình dục và sau đó là sự
tái nhập viện. Nguy cơ của trầm cảm tiến triến này cao
irhất ớ những bệnh nhân có những giai đoạn trầm cảm
trước đó. Có khoáng 44 - 56% bệnh nhân bị trầm cám
nặng sau nhồi máu cơ tim, có tiền sứ bị trầm cám nặng.
Những bệnh nhân bệnh tim đã trái nghiệm qua những
triệu chứng trầm cám, vừa đến nặng, thì điều đáng quan
tâm là không có những triệu chủng sinh học được mong
đợi cúa trầm cám. Vì vậy, phải chú ỹ đến điều này khi
thực hiện lứiững đánh giá về trầm cám.
Hơn nữa, lứiững đánh giá tâm thần chírủr thức đê
chấn đoán bệnh phải dựa trên những tiêu chuấn đã được
chuấn hóa đế cho thấy những tì lệ bệnh thấp hơn. Ti lệ
lưu hành của trầm cám nặng chí là 18%. Tương tự, các
nhà nghiên cứu đã phóng vấn về mặt tâm thần ớ 283
bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim 8 - 1 0 ngày, và phóng
vấn lại sau 3 - 4 tháng bằng bảng phóng vấn. Ban đầu,
có gần 1/5 thỏa mãn tiêu chuấn trầm cảm nặng, nhưng
gần một nứa bệnh nhân thóa mãn tiêu chuấn chấn đoán
trầm cảm nhẹ hoặc nặng. Sự dai dắng của trầm cám cũng