Page 154 - Trang Phục Việt Nam
P. 154
hai sợi dây vải nhỏ ở khoảng giữa hai bên mép tà áo, khi cần thì buộc lại
với nhau. Các bà các cô, mùa rét còn mặc thêm áo len ở trong hoặc mặc
ra ngoài áo dài. Áo len cộc tay (có kiểu như áo gi lê ngắn), hoặc dài tay
nhưng thân áo chỉ dài đến cạp quần. Gấu áo thường chun. Cổ hình chữ V,
cài cúc từ gấu đến lưng chừng ngực, cổ áo đứng chỉ cài một hoặc hai cúc
từ cổ đến ngực. Hoặc mặc áo vét đầm, cổ đứng, đằng sau cắt chéo vải,
khi mặc phía dưới tạo thành hình sóng lượn. Cổ quàng khăn san (châle)
rộng bằng len chùm cả hai vai hoặc khăn lụa thêu, vải hoa hay bằng len
móc.
Tóc thường để dài, vấn khăn vành dây bằng nhung đen. Khi vấn khăn,
không vấn tròn mà hơi bẹt, quấn quanh đầu hai vòng. Đuôi khăn ở bên
cạnh được cài bằng đinh ghim cho khỏi tuột. Hoặc quấn tóc trần, rẽ
đường ngôi giữa, hoặc bên cạnh, mái tóc chải bồng hay uốn hình lưỡi trai.
Phía sau gáy thường kéo tóc trễ xuống cổ như hình lưỡi trai. Có hình thức
tết bím (tressé), bện tóc hai bên thành hai đuôi sam, rồi vòng bên nọ sang
bên kia nhiều lần, dùng trâm nhỏ để giữ cho khỏi tuột, cả mớ tóc tết trễ
xuống cổ áo. Có một số người cắt tóc ngắn uốn điện (frisé).
Đồ trang sức thường là kiềng và dây chuyền có mặt tròn khắc chữ thọ,
hoặc hai chữ lồng nhau, hay hình quả tim… Có người đeo ở cổ chuỗi hạt
trai hay hạt ngọc. Đeo tay, có vòng ngọc hay vòng huyền, vòng chạm hoặc
lập lắc (plaque). Ngón tay đeo nhẫn mặt ngọc, nhẫn ma dê (marié) có
nghĩa là nhẫn cưới.
Dùng phấn son trang điểm: đánh má hồng, tô môi đỏ. Một số người ăn
diện thường nhổ lông mày, chỉ để lại một đường rất nhỏ rồi lấy bút chì vẽ
thêm cho lông mày rõ nét, dài và cong.
Các bà đi dép nhung hai quai chéo, đế làm bằng li e cao từ 3cm đến
5cm, hay guốc gỗ đế bằng, sơn đen hoặc nâu. Những người còn trẻ và
các nữ sinh thường đi giày da màu trắng, quai tết bằng nhiều sợi da nhỏ
hoặc hai quai chéo to, có quai hậu, đế thấp 3cm, gót vuông, hoặc đi giày
cao gót, săng đan hay guốc.