Page 114 - Trang Phục Truyền Thống Của Các Dân Tộc Việt Nam
P. 114
mặc áo mớ ba nhưng khác miền Bắc là cài cúc kín, cổ áo
trong cao hơn cổ áo ngoài chút ít để lộ ba màu khác nhau.
Tà áo khép kín nhưng mép tà cũng vẫn lộ ba màu. Quần
thường mặc màu trắng, hãn hữu mới mặc quần đen. Phụ
nữ trung niên để tóc dài, chải ngược lên (gọi là chải láng)
và búi gọn sau gáy. Phụ nữ trẻ để tóc dài, cặp lại phía sau
hay để tóc ngang vai.
Vào những năm 1920-1930, trang phục ở nông thôn
vẫn theo lối cổ truyền, nhưng trang phục của phụ nữ thành
thị Bắc, Trung, Nam đã có nhiều thay đổi. Họ thường mặc
áo dài, cổ áo tròn đứng. Từ vai đến cổ tay áo nhỏ dần, dọc
ống tay áo mở một đoạn (dài chừng 3cm), sau khi mặc cài
kín bằng cúc bấm cho tay áo khít vào cổ tay. Gấu áo dài
cách đất từ 10cm-20cm). Khi mặc áo, cài cúc cạnh, chiếc
cúc ở cổ nhiều khi không cài, gọi là áo cổ hở (riêng phụ nữ
vùng Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế mặc áo cài
kín cổ). Phụ nữ miền Nam thường mặc áo dài đến đầu gối,
phủ lên chiếc quần lĩnh đen. Tóc chải ngược lên rồi búi gọn
sau đàu, cài trâm vàng hay cài hai cái lược cong ở hai bên
để giữ búi tóc cho khỏi tuột.
Phụ nữ Hà Nội giai đoạn này dần dần bỏ mặc váy. Họ
mặc quần màu đen bằng vải lĩnh, nái, sa tanh hay quần màu
trắng bằng lụa, lanh, vấn khăn nhung đen, để tóc đuôi gà.
Hình thức chải tóc lúc đàu ngược lên rồi bới gọn phía sau
đỉnh đầu, đến giai đoạn búi ở gáy, về sau lại hạ thấp xuống
nữa. Rẽ ngôi giữa, vấn tóc trần thường là phụ nữ Quảng Trị,
Thừa Thiên, Huế. Phụ nữ miền Nam vẫn búi tóc cao, cài
trâm (lông nhím). Hàng ngày tóc thường được chải, xoa
bằng dầu dừa để bảo vệ và nuôi tóc được óng ả, mượt mà.
ril4 \