Page 111 - Trang Phục Truyền Thống Của Các Dân Tộc Việt Nam
P. 111
khăn thâm). Đó là một miếng vải vuông mỗi cạnh từ 70cm
đến 80cm. Khi chít, gập chéo khăn lại thành hình tam giác,
đặt lên đầu, [có thể chỉ đặt ngang trên đỉnh đầu), hai góc
khăn buộc vào dưới cằm, tai được trùm kín. Cũng có kiểu
đặt mép khăn xuống gần trán, kéo hai bên khăn về hai phía
thành một hình mỏ quạ ở giữa rồi buộc hai đầu khăn
xuống dưới cằm hoặc quặt đầu khăn buộc ra sau gáy, gọi là
chít khăn mỏ quạ.
Nón: Các loại nón thường thấy là nón lá gồi, lá cọ [loại lá
già, bền chắc, để dãi nắng dầm mưa, lâu bị hở), nón chỏm
bằng, nón lòng chảo (nông mà choãi), nón thúng [sâu và hơi
khum), nón chân tượng [rất sâu, hình chân voi) - nón này
còn gọi là nón quả bứa (vì trông giống quả bứa cắt ngang).
Nhìn chung, phụ nữ miền Bắc ưa chuộng màu nâu
sồng. Màu sắc và kiểu áo phù hợp với điều kiện lao động,
thời tiết từng miền. Dù là trang phục lao động, các kiểu
quần áo vẫn được sửa đổi ngày một gọn gàng, ưa nhìn hơn.
ở thành thị miền Bắc, tầng lớp phụ nữ ít phải lao động
vất vả thường mặc váy dài màu đen chấm gót, áo cánh
ngắn bằng vải trắng hay lụa tơ tằm. Yếm màu trắng, hoặc
màu hoa hiên hay vàng tơ tằm. Thắt lưng bằng lụa màu.
Khi có khách đến nhà hoặc có công việc ra đường, bao giờ
họ cũng mặc thêm áo dài. Mùa nóng, họ mặc áo dài tứ thân
hai vạt trước như nhau và buông thả tự nhiên hoặc buộc
vạt phía trước hoặc phía sau. Mùa rét, họ mặc hai hoặc ba
chiếc áo dài cùng một lúc gọi là áo mớ. Vấn khăn nhiễu, để
tóc đuôi gà. Đầu đội nón ba tầm. Chân đi dép cong.
Răng đen hạt huyền, ăn trầu cho môi đỏ cũng là một
tiêu chuẩn về cái đẹp của người phụ nữ.
m ì