Page 79 - Sổ Tay Chuyên Ngành Hàn
P. 79

Hình 5-5. Độ
            ngấu  thay đổi                      w         w/       w/'
            theo  loại  khí bảo   DC   DC       dc        DC        DC
            vệ,  chiểu  phân   phân cực   phân cực   phân cực   phân cực   phăn cực
                             thuận    thuận    thuận      thuận    thuân
            cực,  và  cường
                              heli    argon   argon + oxy  argon+CO^
            độ dòng  điện.                              (băn phun)  (phun)
           kim loại  nóng chảy  khỏi bị  nhiễm  bẩn.  Các thành phần trợ  dung
           kết hợp với các tạp chất trong kim loại nóng chảy và kéo chúng nổi
           lên bề  m ặt,  tại  đây,  chúng kết dính với  lớp  xỉ  phía trên  môi  hàn.
           Lớp xỉ này bảo vệ kim loại đang nguội dần không bị oxy hóa, đồng
           thời làm chậm tốc độ nguội dể ngăn cản sự biến cứng.  Sau khi môì
           hàn nguội,  có thể đập vỡ xỉ đế loại bỏ một cách dễ  dàng.  H ình 5-5
           minh họa cách  lắng đọng kim loại  từ điện cực  có  lớp  phủ.
               Các điện cực có bột sắt trong lớp phủ được sử dụng rộng rãi, đặc
           biệt là  trong sản  xuất.  Điện  cực  này  giảm  chi  phí  hàn  bằng  cách
           tăng đáng kể lượng kim loại có thể lắng đọng theo kích cỡ điện cực
           và  cường độ  dòng điện.
               Một loại  điện cực có  lớp phủ  cách điện nóng chảy  đủ  chậm  để
           hơi dôi  quá  lõi kim loại  đang nóng chảy, và  nếu bị  kéo lé  dọc theo
           chi tiết, phần lớp phủ này sẽ  duy trì chiều dài hồ quang chính xác.
           Các điện cực này được gọi là điện cực tiếp xúc hoặc điện cực kéo lê.
               Mặc dù  rất nhiều công việc hàn vẫn được thực hiện bằng điện
           cực có lớp phủ bình thường, idiưng trong những năm  gần đây, nhiều
           phương pháp bảo vệ khác đã được áp dụng, chủ yếu là do chúng cho
           phép  sử dụng điện cực liên tục và  thiết bị  cấp  điện cực tự động.

           HÀN HỒ QUANG WOLFRAM KHÍ TRƠ
           Hàn hồ quang wolfram khí trơ (GTAW) là một trong các cải tiến lớn
           đầu tiên không sử dựng điện cực có lớp phủ thông thường. Phương
           pháp này được phát triển vào thập niên  1940 để hàn các kim loại
           khó hàn. Vào thời đó, nhôm, magne, chrom, và các thép molybden
           đang được quan tâm , vì chúng có nhiều ứng dụng trong hàng không
           và các vật liệu chiến tranh khác. Khi mới phát triển để hàn magne,
           phương pháp GTAW sử dụng điện cực wolfram (tungsten) lắp trong
           loại kẹp đặc biệt.  Đường kính điện cực wolfram thay đổi theo từng
           công việc. Khí trơ đi qua kẹp với lưu lượng đủ tạo thành khí quyển
           trơ bao quanh hồ quang và vũng kim loại nóng chảy, ngăn kim loại
           tiếp xúc với khí quyển. Hình 5-6 minh họa cấu tạo mỏ hàn GTAW.


            78
   74   75   76   77   78   79   80   81   82   83   84