Page 17 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 17
PHÒNG VÀ CHỬA CÁC BÊNH ĐAU ĐẦU
các phản xạ thực vật như: tăng nhịp tim, tăng hô hấp,
tăng huyết áp, co mạch, tiết mồ hôi v.v...
Riêng ở người, đau còn gây ra một trạng thái có thể ý
thức được (Head, 1910), nên ngoài các biểu hiện trên còn
quan sát được những biểu hiện thuộc hành vi, tập tính khi
bị đau. Do đó, đau được xem là một yếu tô" quan trọng
trong hành vi của con người.
Barcroft (1937) coi đau như là "một tính chất tâm lý
được kèm theo của phản ứng tự vệ". Sherrington (1938)
cũng cho rằng: đau là "trợ thủ tinh thần của phản xạ tự vệ
cấp bách". Theo quan niệm này, phản xạ tự vệ dược xem là
phản ứng sơ cấp trả lòi lại kích thích gây hại đối với cơ thể,
còn đau là tín hiệu được kèm theo, hay còn gọi là tín hiệu
bổ sung, là phản ứng thứ cấp. Quan niệm này phù hợp với ý
kiến của nhiều tác giả về sự tiến hoá của các cơ chế bảo vệ,
trong đó phản xạ tự vệ là phản ứng đơn giản nhất.
Phản xạ tự vệ xuất hiện trong quá trình tiến hoá khá
lâu trước khi xuất hiện các cảm giác đặc hiệu, ví dụ cảm
giác đau. Đặc điểm tiến hoá của cảm giác đau như một cơ
chê bảo vệ được biểu hiện bằng sự phân bô" các thụ cảm
thể tiếp nhận kích thích gây đau. Ví dụ ở các cơ quan nội
tạng, số- lượng của thụ cảm thể tiếp nhận cảm giác đau ít
hơn nhiều so với ở da. Điều này được giải thích bằng khả
năng được bảo vệ khỏi các tác nhản kích thích từ bên
ngoài lên các cơ quan nội tạng.
Vấn đề đau và làm cho hết đau (điều trị đau) đã lôi
cuốn sự chú ý của y học thực hành từ thời xa xưa. Đến thời
Descartes, người ta đã thử tìm hiểu các cơ chế làm xuất
hiện cảm giác đau. Năm 1894, hầu như cùng một lúc đã
xuất hiện hai công trình của Frey và
Goldscheider đặt nền móng cho con đường khoa học
nghiên cứu về sự đau. Frey đề xuất thuyết về tính đặc
hiệu của đau với nội dung như sau: đau là cảm giác đặc
17