Page 46 - Phát Hiện Và Điều Trị Bệnh Loãng Xương
P. 46
nguyên phát chiếm 90%. Bệnh loãng xưđng còn có thể
phân thành hai loại nhỏ hđn, là bệnh loãng xương loại I
và bệnh loãng xương loại II. Loãng xương loại I còn gọi
là loãng xương sau khi mãn kinh, loãng xương loại II là
loãng xương do tuổi cao. Loãng xương kế phát có thể
phát cùng vói các chứng bệnh khác hoặc là do thuốc gây
ra. Độ cứng chắc và mức độ hoàn chỉnh của xương được
quyết định bởi trạng thái cân bằng giữa tế bào hủy
xương của tổ chức máu đối với xương được hấp thụ và tế
bào xương của tủy xương cơ bản được tái lập lại. Theo
độ tuổi lão hóa hoặc do nguyên nhân bệnh tật, xương
hấp thụ vượt quá xương hình thành sẽ xuất hiện hiện
tượng lượng xương dần mất đi và giảm thấp. Do đó bệnh
loãng xương không có triệu chứng giai đoạn đầu. Các
đặc điểm này làm xương biến đổi dẫn đến xương càng
nhẹ hơn, yếu hơn, giòn hơn, mất đi độ cứng và độ đàn
hồi ban đầu, tính giòn gia tăng, dễ bị gãy xương.
Xương hình thành do các muối vô cơ như canxi,
phốt-pho (chủ yếu là các gốc bazơ của phốt-pho, acid của
canxi)... tích trữ trong các sỢi collagen, tổ hỢp nên các
chất cơ bản theo một tỷ lệ nhất định, kết hỢp hài hòa lại
với nhau làm cho xương vừa cứng chắc vừa có tính dẻo.
Tỷ lệ chất vô cơ và các chất cơ bản của xương cùng vói
việc tăng độ tuổi sẽ giảm đi, kết cấu của tổ chức xương
phát sinh biến đổi làm cho chức năng bình thường của
tổ chức xương cũng bị biến đổi.
Biểu hiện đầu tiên của bệnh loãng xương là hàm
lượng chất cơ bản trong xương giảm đi rõ rệt, nhưng các
thành phần muối vô cơ như canxi, phốt-pho không biến