Page 55 - Mênh Mông Biển Việt Tập 1
P. 55

dân  ngoại  tịch  lập đội Hoàng Sa", theo  truyền thống có từ
           thòi chúa Nguyễn Phúc Nguyên gần hai thế kỉ trước. Liên
           tục  trong  các  năm  1815,  1816,  ông  “sai đội Hoàng  Sa  của
           Phạm  Quang Ảnh  ra đảo Hoàng Sa  thăm dò đường biển"  và
           hiển khai đồng bộ các hoạt động thực thi chủ quyền. Nhà
           vua mở rộng quan hệ vói các nước, tiếp nhận bản đồ đảo
           Hoàng Sa từ năm 1817, tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa và
           Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào phản đối
           hay có ý định tranh giành.

               Ngưòi kế vị ông - vua Minh Mạng - cũng ra sức củng
           cố lực lượng thủy quân phục vụ việc trị nước, an dân, phát
           huy vị thế của biển. Năm 1835, nhà vua ra chỉ dụ:  "Nước
           ta dựng nước ở phưong Nam đất nhiều bãi biển, thủy sự rất là
           quan  yếu,  nên  thường xuyên  huấn  luyện  để thuộc hết đường
           biển". Vì thế "gặp lúc ngoài biển gió thuận, sóng yên, phải thao
           diễn quân thuyền cho được tinh thạo lên, nhân thể mà tuần tiễu
           mặt biển, cũng là làm một việc mà được hai việc vậy".

               Thủy quân triều Nguyễn có hai bộ phận: Một bộ phận
           líng hực ở Kừih đô gọi là Kinh kì thủy sư, được trang bị
           đầy đủ, thường xuyên thao luyện để đáp líng các yêu cầu
           về quân sự và dân sự khi rữià nước cần.  Sách Khâm định
           Đại Nam  hội điển  sự lệ (gọi tắt là Hội điển)  ghi chép  rất tí
           mỉ cơ cấu thủy quân, số lượng, biên chế, nhiệm vụ, khen
           thưởng, xử phạt...  Một bộ phận khác là thủy quân ở các
           tính, số lượng tùy theo số dân.  Lứứi tuyển vào là những
           ngưòi thạo sông biển, chịu sự chỉ huy trực tiếp của Đề đốc
           hoặc Lãnh bưih. Theo Hội điển, tứứi đến năm 1838, tổng
           số thủy quân ở các từửi vào khoảng 16.500 ngưòi.  Họ có



             54
   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59   60