Page 421 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 421
học là nguyên tử và cấu tạo bên trong (hạt nhân) của nó. Những
thí nghiệm bắn phá nguyên tử của nhà bác học ngƣời Anh
E.Rơdơphơ tiến hành năm 1911 chứng tỏ nguyên tử không phải
đặc mà rất rỗng. Dựa trên thí nghiệm đó, ngƣời học trò của ông
là Ninxơ Bo để xƣớng lí thuyết mẫu hành tinh về cấu tạo nguyên
tử. Nguyên tử ở giữa có một hạt nhân, chung quanh có các điện
tử chạy trên những quỹ đạo nhất định giống nhƣ các hành tinh
chạy chung quanh mặt trời.
Tiếp đó, năm 1932 phát hiện hạt nhân nguyên tử bao gồm
hai loại hạt: Prôtôn và Nơtrôn. Năm 1934, Phêđêríc và Iren
Quyri, con rể và con gái của Pie và Mari Quyri phát hiện ra hiện
tƣợng phóng xạ nhân tạo, chế tạo ra chất đồng vị phóng xạ. Năm
1938 - 1939 các nhà bác học Ốt Tô Han, Lida Métne (Đức),
Enricô Phécmi (Italia) và Giôliô Quyri (Pháp) phát minh hiện
tƣợng phản ứng dây chuyền phá vỡ hạt nhân urani. Năm 1942,
Enricô Phecmi đã xây dựng lò phản ứng nguyên tử đầu tiên trên
thế giới dƣới khán đài sân vận động trƣờng đại học Sicagô, lần
đầu tiên giải phóng năng lƣợng trong lòng hạt nhân nguyên tử.
Cùng với lí thuyết nguyên tử hiện đại là sự ra đời lí thuyết
tương đối hiện đại của nhà bác học Đức Anbe Anhxtanh. Lúc
đầu, lí thuyết của Anhxtanh bị phản đối khá nhiều, nhƣng dần
dần qua nhiều sự kiện thực nghiệm đã chứng minh lí thuyết
tƣơng đối của Anhxtanh không những là hoàn toàn đúng đắn mà
còn là một công cụ không thể thiếu đƣợc trong nhiều lĩnh vực
khoa học và kĩ thuật (nhƣ kĩ thuật máy gia tốc, vật lí hạt nhân
năng lƣợng cao, vật lí thiên văn và thiên văn học hiện đại). Có
thể nói rằng hầu hết các phát minh lớn về vật lí học của thế kỉ
XX đều có liên quan đến tên tuổi của Anhxtanh, từ năng lƣợng
nguyên tử cho đến lade, bán dẫn.