Page 33 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 33
biết đƣợc 12 cung hoàng đạo, biết đƣợc các hành tinh nhƣ sao
Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ.
Khi quan sát bầu trời, các nhà thiên văn học cứ một tiếng
đồng hồ thì ghi vị trí các sao lên một tờ giấy có kẻ ô. Để đo thời
gian, từ thời Cổ vƣơng quốc ngƣời Ai Cập đã phát minh cái nhật
khuê. Đó là một thanh gỗ có một đầu cong. Muốn biết mấy giờ
thì xem bóng mặt trời của mút cái đầu cong in vị trí nào trên
thanh gỗ. Nhƣng dụng cụ này chỉ xem đƣợc thời gian ban ngày
và khi đang có nắng. Đến thời vƣơng triều XVII, ngƣời Ai Cập
lại phát minh ra đồng hồ nƣớc. Đó là một bình bằng đá hình
chóp nhọn. Chỗ nhọn là đáy và ở đó có một lỗ nhỏ. Trong bình
đổ đầy nƣớc, nƣớc theo lỗ nhỏ chảy ra ngoài làm cho mực nƣớc
vơi dần. Nhìn vào mực nƣớc là ngƣời ta có thể biết thời gian.
Loại đồng hồ này đã khắc phục đƣợc nhƣợc điểm của loại nhật
khuê nói trên.
Thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh vực thiên văn của Ai
Cập cổ đại là việc đặt ra lịch. Lịch Ai Cập đƣợc đặt ra dựa trên
kết quả quan sát tinh tú và quy luật dâng nƣớc của sông Nin. Họ
nhận thấy rằng buổi sáng sớm khi sao Lang (Sirus) bắt đầu mọc
cũng là lúc nƣớc sông Nin bắt đầu dâng. Hơn nữa khoảng cách
giữa hai lần mọc của sao Lang là 365 ngày. Họ lấy khoảng thời
gian ấy làm một năm. Một năm đƣợc chia làm 12 tháng, mỗi
tháng có 30 ngày, 5 ngày còn thừa để vào cuối năm để ăn tết.
Năm mới của Ai Cập bắt đầu từ ngày nƣớc sông Nin bắt đầu
dâng (vào khoảng tháng 7 dƣơng lịch). Một năm đƣợc chia làm
3 mùa, mỗi mùa 4 tháng. Đó là mùa Nƣớc dâng, mùa Ngũ cốc và
mùa Thu hoạch.
Nhƣ vậy, lịch của Ai Cập cổ đại là một thứ lịch đƣợc phát
minh rất sớm (vào khoảng thiên kỉ IV TCN) và tƣơng đối chính