Page 31 - Kỹ Thuật Trồng Mía
P. 31
thường từ mép lá vào trong và từ đỉnh lá đến bẹ. Bệnh nặng
làm giảm khả năng quang hợp ảnh hưởng đến năng suất và
chất lượng đường.
Biện phổp chủ yếu là chọn giông kháng.
d. Các loại bệnh nấm khác như:
- Bệnh xoắn cổ lá (bệnh Pokkah boeng).
- Bệnh đôm vòng do nấm Leptospharea sacchari Br. de H.
e. Bệnh đốm vàng (do nâĩn Cercospora koepkeỉ Kriiger).
1.2. Bệnh vi khuẩn
a. Bệnh sọc đỏ : Do vi khuẩn Kanthomonas rubỉỉneas.
Bệnh phát triển khi độ ẩm cao. Lúc đầu xuất hiện sọc đỏ, nâu,
hẹp đều chạy dài song song gân lá và lan về hai phía và tận
gốc cổ lá. Trong thân có thể thôi đi và chết hàng loạt, chẻ
dóng thấy có màu dỏ hoặc màu cà phê, hoặc tạo ngăn bọng
trong các dóng mía.
b. Bệnh chảy nhụa : Do vi khuẩn Xanthomonas vaseularum.
Triệu chúng : Từ nửa phía trên tói đỉnh của phiến lá xuất
hiện những sọc màu vàng tới màu cam rồi lan dần (thường trên
lá già). Khi chặt ngang cây mía thấy tiết ra chất nhựa màu vàng
có thể làm giảm 40% năng suất và 20% hàm lượng dường.
c. Bệnh thân, ngọn đâm chổi : Do vi khuẩn Xanthomonas
albiỉinanes. Xuất hiện trên lá từ phiến đến bẹ. Các sọc màu dỏ
hay tím. Ngọn mía như ngừng phát triển, mắt mầm có màu
hơi đỏ.
2. Sâu đục hại mía và cách phòng trừ
2.1. Sâu đục ngọn (Scirpophaga nivella FabrigiusJ.
Sâu có màu vàng ngà, trên lưng có một gân đen, bướm có
màu bạc trắng. Bướm cái có chùm lông màu cam ở đô't cuôì
cùng và lđn hơn bướm đực. Bướm đẻ trứng ở đầu lá mía, mặt
dưới và có lông trắng che phủ. Sau khi nở, sâu theo gân chính
đục vào ngọn mía và làm nhộng ngay trong thân.
Sâu thường phá hại ở giai đoạn đầu sinh trưởng (nảy
mầm và đẻ nhánh), đặc biệt mỗi cây mía có một con sâu. Khi
30